1. 1
Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi
đă tường thuật tất cả những việc
Đức Giê-su làm và những điều Người dạy,
kể từ đầu2 cho tới ngày Người
được rước lên trời. Trước ngày ấy,
Người đă dạy bảo các Tông Đồ mà Người
đă tuyển chọn nhờ Thánh Thần.3 Người
lại c̣n dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các
ông thấy là Người vẫn sống sau khi đă chịu
khổ h́nh: trong bốn mươi ngày, Người đă
hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên
Chúa.4 Một hôm, đang khi dùng bữa với các
Tông Đồ, Đức Giê-su truyền cho các ông không
được rời khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng phải ở
lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đă hứa,
“điều mà anh em đă nghe Thầy nói tới,5
đó là: ông Gio-an th́ làm phép rửa bằng nước, c̣n
anh em th́ trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong
Thánh Thần.”
6 Bấy giờ những người đang tụ họp
ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy,
có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương
quốc Ít-ra-en không? “7 Người đáp: “Anh em
không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha
đă toàn quyền sắp đặt,8 nhưng anh
em sẽ nhận được sức mạnh của
Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của
Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền
Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”
9 Nói xong, Người được cất lên ngay
trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy
Người, khiến các ông không c̣n thấy Người nữa.10
Và đang lúc các ông c̣n đăm đăm nh́n lên trời
phía Người đi, th́ bỗng có hai người đàn
ông mặc áo trắng đứng bên cạnh11 và
nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao c̣n đứng
nh́n lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa
ĺa bỏ các ông và được rước lên trời,
cũng sẽ ngự đến y như các ông đă thấy
Người lên trời.”
12 Bấy giờ các ông từ núi gọi
là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem. Núi này ở gần
Giê-ru-sa-lem, cách đoạn đường được
phép đi trong ngày sa-bát.13 Trở về nhà, các ông
lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là các
ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô,
Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và
Giu-đa con ông Gia-cô-bê.14 Tất cả các ông đều
đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện
cùng với mấy người phụ nữ, với bà
Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của
Đức Giê-su.
15 Trong những ngày ấy, ông Phê-rô đứng
lên giữa các anh em – có khoảng một trăm hai
mươi người đang họp mặt – Ông nói:16
“Thưa anh em, lời Kinh Thánh phải ứng nghiệm, lời
mà Thánh Thần đă dùng miệng vua Đa-vít để nói
trước về Giu-đa, kẻ đă trở thành tên dẫn
đường cho những người bắt Đức
Giê-su.17 Y đă là một người trong số
chúng tôi và được tham dự vào công việc phục
vụ của chúng tôi.18 Vậy, con người ấy
đă dùng tiền công của tội ác mà tậu một thửa
đất; y đă ngă lộn đầu xuống, vỡ bụng,
ḷi cả ruột gan ra.19 Điều đó, mọi
người ở Giê-ru-sa-lem đều biết, khiến họ
đặt tên cho thửa đất ấy là
Kha-ken-đơ-ma, theo tiếng của họ nghĩa là
Đất Máu.20 Thật thế, trong sách Thánh vịnh
có chép rằng:
Ước ǵ lều trại nó phải tan hoang,
không c̣n ai trú ngụ.
và ước ǵ người khác nhận
lấy chức vụ của nó.
21 “Vậy phải làm thế này: có những
anh em đă cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời
gian Người sống giữa chúng ta,22
kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép
rửa cho đến ngày Người ĺa bỏ chúng ta và
được rước lên trời. Một
trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng
rằng Người đă phục sinh.”
23 Họ đề cử hai người:
ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô,
và ông Mát-thi-a.24 Họ cầu nguyện rằng: “Lạy
Chúa, chính Chúa thấu suốt ḷng mọi người; giữa
hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai25
để nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ,
chỗ Giu-đa đă bỏ để đi về nơi
dành cho y.”26 Họ rút thăm, thăm trúng ông
Mát-thi-a: ông được kể thêm vào số mười
một Tông Đồ.
2. 1
Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người
đang tề tựu ở một nơi,2
bỗng từ trời phát ra một tiếng động,
như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn
nhà, nơi họ đang tụ họp.3 Rồi họ
thấy xuất hiện những h́nh lưỡi giống
như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng
người một.4 Và ai nấy đều
được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt
đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả
năng Thánh Thần ban cho.
5 Lúc đó, tại Giê-ru-sa-lem, có những người
Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về.6
Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến.
Họ kinh ngạc v́ ai nấy đều nghe các ông nói tiếng
bản xứ của ḿnh.7 Họ sửng sốt,
thán phục và nói: “Những người đang nói đó
không phải là người Ga-li-lê cả ư?8 Thế
sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng
mẹ đẻ của chúng ta?9 Chúng ta đây, có
người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a,
Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a,10 có người
là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp
giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến
đây;11 nào là người Do-thái cũng như
người đạo theo; nào là người đảo
Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta
đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan
báo những kỳ công của Thiên Chúa! “12 Ai nấy
đều sửng sốt và phân vân, họ bảo nhau: “Thế
nghĩa là ǵ?”13 Nhưng người khác lại chế
nhạo: “Mấy ông này say bứ rồi!”
14 Bấy giờ, ông Phê-rô đứng
chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với
họ rằng: “Thưa anh em miền Giu-đê và tất cả
những người đang cư ngụ tại
Giê-ru-sa-lem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những
lời tôi nói đây.15 Không, những người
này không say rượu như anh em nghĩ, v́ bây giờ mới
là giờ thứ ba.16 Nhưng đó là điều
đă được ngôn sứ Giô-en nói đến:17
Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ
Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con
gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ
thấy thị kiến, bô lăo sẽ được báo mộng.18
Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần
Khí Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ
trở thành ngôn sứ.19 Ta sẽ cho xuất hiện
những điềm thiêng trên trời cao, và những dấu
lạ dưới đất thấp, đó là máu, lửa
và những cột khói.20 Mặt trời sẽ trở
nên tối tăm, mặt trăng hoá thành máu, trước
khi ngày của Đức Chúa đến, ngày vĩ đại,
vinh quang.21 Bấy giờ hết những ai kêu cầu
danh Đức Chúa, sẽ được ơn cứu
độ.
22 “Thưa đồng bào Ít-ra-en, xin nghe
những lời sau đây.
Đức Giê-su Na-da-rét, là người đă
được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của
Người, Thiên Chúa đă cho Người làm những phép
mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em.
Chính anh em biết điều đó.23 Theo kế hoạch
Thiên Chúa đă định và biết trước, Đức
Giê-su ấy đă bị nộp, và anh em đă dùng bàn tay kẻ
dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết
đi.24 Nhưng Thiên Chúa đă làm cho Người sống
lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ
của cái chết. V́ lẽ cái chết không tài nào khống
chế được Người măi.25 Quả vậy,
vua Đa-vít đă nói về Người rằng: Tôi luôn nh́n
thấy Đức Chúa trước mặt tôi, v́ Người
ở bên hữu, để tôi chẳng nao ḷng.26 Bởi
thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi
hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm
hy vọng.27 V́ Chúa chẳng đành bỏ mặc
linh hồn con trong cơi âm ty, cũng không để Vị
Thánh của Ngài phải hư nát.28 Chúa sẽ dạy
con biết đường về cơi sống, và cho con
được vui sướng tràn trề khi ở trước
Thánh Nhan.
29 “Thưa anh em, xin được phép mạnh
dạn nói với anh em về tổ phụ Đa-vít rằng:
người đă chết và được mai táng, và mộ
của người c̣n ở giữa chúng ta cho đến
ngày nay.30 Nhưng v́ là ngôn sứ và biết rằng
Thiên Chúa đă thề với người là sẽ đặt
một người trong ḍng dơi trên ngai vàng của người,31
nên người đă thấy trước và loan báo sự
phục sinh của Đức Ki-tô khi nói: Người
đă không bị bỏ mặc trong cơi âm ty và thân xác Người
không phải hư nát.32 Chính Đức Giê-su đó,
Thiên Chúa đă làm cho sống lại; về điều này,
tất cả chúng tôi xin làm chứng.33 Thiên Chúa Cha
đă ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người
Thánh Thần đă hứa, để Người đổ
xuống: đó là điều anh em đang thấy đang
nghe.34 Thật vậy, vua Đa-vít đă chẳng
lên trời, thế mà lại nói: Đức Chúa phán cùng Chúa
Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị,35
để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt
làm bệ dưới chân Con.36 Vậy toàn thể
nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức
Giê-su mà anh em đă treo trên thập giá, Thiên Chúa đă đặt
Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô.”
37 Nghe thế, họ đau đớn
trong ḷng, và hỏi ông Phê-rô cùng các Tông Đồ khác:
“Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm ǵ? “38 Ông
Phê-rô đáp: “Anh em hăy sám hối, và mỗi người hăy
chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để
được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận
được ân huệ là Thánh Thần.39 Thật
vậy, đó là điều Thiên Chúa đă hứa cho anh em,
cũng như cho con cháu anh em và tất cả những
người ở xa, tất cả những người mà
Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.”40
Ông Phê-rô c̣n dùng nhiều lời khác để long trọng
làm chứng và khuyên nhủ họ. Ông nói: “Anh em hăy tránh
xa thế hệ gian tà này để được cứu
độ.”41 Vậy những ai đă
đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa.
Và hôm ấy đă có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo.
42 Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông
Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau,
siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện
không ngừng.
43 Mọi người đều kinh
sợ, v́ các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu
lạ.
44 Tất cả các tín hữu hợp nhất với
nhau, và để mọi sự làm của chung.45 Họ
đem bán đất đai của cải,
lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.
46 Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần
đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại
tư gia, họ dùng bữa với ḷng đơn sơ vui vẻ.47
Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân
thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn
mỗi ngày có thêm những người được cứu
độ.
3. 1
Một hôm, ông Phê-rô và ông Gio-an lên Đền
Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín.2
Khi ấy, người ta khiêng đến một người
què từ khi lọt ḷng mẹ. Ngày ngày họ đặt anh
ta bên cửa Đền Thờ gọi là Cửa Đẹp,
để xin kẻ ra vào Đền Thờ bố thí.3
Vừa thấy ông Phê-rô và ông Gio-an sắp vào Đền Thờ,
anh liền xin bố thí.4 Hai ông nh́n thẳng vào anh,
và ông Phê-rô nói: “Anh nh́n chúng tôi đây! “5 Anh ta chăm
chú nh́n hai ông, tưởng rằng sẽ được cái
ǵ.6 Bấy giờ ông Phê-rô nói: “Vàng bạc th́ tôi
không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức
Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà
đi! “7 Rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo anh chỗi dậy. Lập tức
bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng
cáp.8 Anh đứng phắt dậy, đi lại
được; rồi cùng với hai ông, anh vào Đền
Thờ, vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên
Chúa.9 Toàn dân thấy anh đi lại và ca tụng
Thiên Chúa.10 Và khi nhận ra anh chính là người vẫn
ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thờ,
họ kinh ngạc sững sờ về sự việc mới
xảy đến cho anh.
11 Anh cứ níu lấy ông Phê-rô và ông
Gio-an, nên toàn dân rất kinh ngạc, chạy ùa tới các ông
tại hành lang gọi là hành lang Sa-lô-môn.12 Thấy vậy,
ông Phê-rô lên tiếng nói với dân: “Thưa đồng bào
Ít-ra-en, sao lại ngạc nhiên về điều đó, sao
lại nh́n chúng tôi chằm chằm, như thể chúng tôi
đă làm cho người này đi lại được, nhờ
quyền năng riêng hay ḷng đạo đức của
chúng tôi?13 Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham,
I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đă tôn vinh Tôi
Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà
chính anh em đă nộp và chối bỏ trước mặt
quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là phải tha.14 Anh em
đă chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công
Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân.15 Anh em
đă giết Đấng khơi nguồn sự sống,
nhưng Thiên Chúa đă làm cho Người trỗi dậy từ
cơi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng.16
Chính nhờ ḷng tin vào danh Người, mà danh Người đă
làm cho kẻ anh em nh́n và biết đây trở nên cứng
cáp; chính ḷng tin Người ban đă cho anh này được
khỏi hẳn như thế, ngay trước mắt tất
cả anh em.
17 “Thưa anh em, giờ đây tôi biết
anh em đă hành động v́ không hiểu biết, cũng
như các thủ lănh của anh em.18 Nhưng, như
vậy là Thiên Chúa đă thực hiện những điều
Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo
trước, đó là: Đấng Ki-tô của Người
phải chịu khổ h́nh.19 Vậy anh em hăy sám hối
và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ
tội lỗi cho anh em.20 Như vậy thời kỳ
an lạc mà Đức Chúa ban cho anh em sẽ đến, khi
Người sai Đấng Ki-tô Người đă dành cho
anh em, là Đức Giê-su.21 Đức Giê-su c̣n phải
được giữ lại trên trời, cho đến thời
phục hồi vạn vật, thời mà Thiên Chúa đă dùng
miệng các vị thánh ngôn sứ của Người mà loan
báo tự ngàn xưa.22 Thật vậy, ông Mô-sê
đă nói: Từ giữa đồng bào của anh em, Đức
Chúa là Thiên Chúa của anh em sẽ cho trỗi dậy một
ngôn sứ như tôi để giúp anh em; tất cả những
ǵ vị ấy nói với anh em, anh em hăy nghe.23 Kẻ
nào mà không nghe ngôn sứ ấy, th́ sẽ bị diệt trừ
khỏi dân.24 Sau đó, mọi ngôn sứ, kể từ
ông Sa-mu-en đến các vị kế tiếp, khi lên tiếng
th́ cũng đă loan báo những ngày chúng ta đang sống.
25 “Phần anh em, anh em là con cháu của
các ngôn sứ và của giao ước mà Thiên Chúa đă lập
với cha ông anh em, khi Người phán với ông Áp-ra-ham: Nhờ
ḍng dơi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất
sẽ được chúc phúc.26 Thiên Chúa đă cho
Tôi Trung của Người trỗi dậy để giúp
anh em trước tiên, và sai đi chúc phúc cho anh em, bằng
cách làm cho mỗi người trong anh em ĺa bỏ những tội
ác của ḿnh.”
4. 1
Hai ông c̣n đang nói với dân, th́ có các tư tế, viên lănh
binh Đền Thờ, và các người thuộc nhóm
Xa-đốc kéo đến.2 Họ bực tức
v́ các ông giảng dạy cho dân và dựa vào trường hợp
Đức Giê-su mà loan báo kẻ chết sẽ sống lại.3
Họ bắt hai ông và tống ngục cho đến ngày hôm
sau, v́ trời đă về chiều.4 Nhưng trong
đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ
đă tin theo, chỉ riêng số đàn ông đă lên đến
chừng năm ngàn.
5 Hôm sau, các thủ lănh Do-thái, các kỳ mục và kinh
sư họp nhau tại Giê-ru-sa-lem.6 Có cả
thượng tế Kha-nan, các ông Cai-pha, Gio-an, A-lê-xan-đê
và mọi người trong ḍng họ thượng tế.7
Họ cho điệu hai Tông Đồ ra giữa hội
đồng và tra hỏi: “Nhờ quyền năng nào hay nhân
danh ai mà các ông làm điều ấy? “8 Bấy giờ,
ông Phê-rô được đầy Thánh Thần, liền nói
với họ: “Thưa quư vị thủ lănh trong dân và quư vị
kỳ mục,9 hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn
về việc lành chúng tôi đă làm cho một người
tàn tật, về cách thức người ấy đă
được cứu chữa.10 Vậy xin tất
cả quư vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: nhân danh
chính Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng
mà quư vị đă đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa
đă làm cho trỗi dậy từ cơi chết, chính nhờ
Đấng ấy mà người này được lành mạnh
ra đứng trước mặt quư vị.11 Đấng
ấy là tảng đá mà quư vị là thợ xây loại bỏ,
chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng
góc tường.12 Ngoài Người ra, không ai đem
lại ơn cứu độ; v́ dưới gầm trời
này, không có một danh nào khác đă được ban cho nhân
loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà
được cứu độ.”
13 Họ ngạc nhiên khi thấy ông
Phê-rô và ông Gio-an mạnh dạn, và biết rằng hai ông là
những người không có chữ nghĩa, lại thuộc
giới b́nh dân. Họ
nhận ra hai ông là những người đă từng theo
Đức Giê-su;14 đồng thời
họ lại thấy người đă được chữa
lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết
đối đáp thế nào.15 Họ mới truyền
cho hai ông ra khỏi Thượng Hội Đồng, và bàn
tính với nhau.16 Họ nói: “Ta phải xử làm sao
với những người này? Họ đă làm một dấu
lạ rành rành: điều đó hiển nhiên đối với
mọi người cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, và ta
không thể chối được.17 Nhưng để
cho việc đó khỏi lan rộng thêm
trong dân, ta hăy ngăm đe, nghiêm cấm họ từ nay
không được nói đến danh ấy với ai nữa.”
18 Họ cho gọi hai ông vào và tuyệt
đối cấm hai ông không được lên tiếng hay
giảng dạy về danh Đức Giê-su nữa.19
Hai ông Phê-rô và Gio-an đáp lại: “Nghe lời
các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước
mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không?
Các ông thử xét xem!20 Phần
chúng tôi, những ǵ tai đă nghe, mắt đă thấy, chúng
tôi không thể không nói ra.”21 Sau khi
ngăm đe lần nữa, họ thả hai ông về, v́
không t́m được cách trừng trị hai ông. Lư do
là v́ họ sợ dân: ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa v́
việc đă xảy ra.22 Thật vậy, người
được phép lạ ấy chữa lành đă ngoài bốn
mươi tuổi.
23 Được thả về, hai ông
đến với các anh em và thuật lại mọi điều
các thượng tế và kỳ mục đă nói với hai
ông.24 Nghe vậy, họ đồng tâm nhất trí cất
tiếng lên cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Ngài là Đấng tạo
thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài
trong đó;25 Ngài là Đấng đă nhờ Thánh Thần,
dùng miệng tổ phụ chúng con là Đa-vít, tôi trung của
Ngài, mà phán: Sao chư dân lại ồn ào náo động, sao
vạn quốc dám bày kế viển vông?26 Vua chúa trần
gian cùng nổi dậy, vương hầu khanh tướng
rập mưu đồ, chống lại Đức Chúa, chống
lại Đấng Người đă xức dầu phong
vương.
27 “Đúng vậy, Hê-rô-đê, Phong-xi-ô
Phi-la-tô, cùng với chư dân và dân Ít-ra-en đă toa rập
trong thành này, chống lại tôi tớ thánh của Ngài là
Đức Giê-su, Đấng Ngài đă xức dầu.28
Như thế họ đă thực hiện tất cả những
ǵ quyền năng và ư muốn của Ngài đă định
trước.29 Giờ đây, lạy Chúa, xin để
ư đến những lời ngăm đe của họ, và
cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với
tất cả sự mạnh dạn.30 Xin giơ tay
chữa lành, và thực hiện những dấu lạ
điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là Đức
Giê-su.”31 Họ cầu nguyện xong,
th́ nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều
được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu
mạnh dạn nói lời Thiên Chúa.
32 Các tín hữu thời bấy giờ
đông đảo, mà chỉ có một ḷng một ư. Không một
ai coi bất cứ cái ǵ ḿnh có là của riêng, nhưng đối
với họ, mọi sự đều là của chung.
33 Nhờ quyền năng mạnh mẽ
Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giê-su đă sống
lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi
dào ân sủng.
34 Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn,
v́ tất cả những người có ruộng đất
nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền,35
đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền
ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ
theo nhu cầu.
36 Ông Giô-xếp, người được
các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba, nghĩa là người
có tài yên ủi, có một thửa đất. Ông là một thầy
Lê-vi quê quán ở đảo Sưp.37 Ông bán đất
đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các
Tông Đồ.
5. 1
Có một người tên là Kha-na-ni-a cùng với vợ là
Xa-phi-ra bán một thửa đất.2 Ông đồng
ư với vợ giữ lại một phần tiền, rồi
đem phần c̣n lại đặt dưới chân các Tông
Đồ.3 Ông Phê-rô mới nói: “Anh Kha-na-ni-a, sao anh
lại để Xa-tan xâm chiếm ḷng anh, khiến anh lừa
dối Thánh Thần, mà giữ lại một phần giá thửa
đất?4 Khi đất c̣n đó th́ nó chẳng
c̣n là của anh sao? Bán đi rồi th́ anh chẳng
có quyền sử dụng tiền bán đó sao? Sao anh lại rắp tâm làm việc ấy? Anh đă không lừa dối người phàm, mà lừa
dối Thiên Chúa.”5 Nghe những lời ấy,
Kha-na-ni-a ngă xuống tắt thở. Tất
cả những ai nghe kể lại chuyện này đều
rất sợ hăi.6 Các thanh niên đến liệm
xác ông và đem đi chôn.
7 Khoảng ba giờ sau, vợ ông đi vào mà không hay
biết chuyện đă xảy ra.8 Ông Phê-rô lên tiếng
hỏi: “Chị nói cho tôi hay: anh chị bán thửa đất
được bấy nhiêu, phải không? ”
Chị ta đáp: “Vâng, được bấy nhiêu thôi.”9
Ông Phê-rô liền nói: “Sao anh chị lại đồng ḷng với
nhau để thử thách Thần Khí Chúa? Ḱa những
người đă chôn cất chồng chị c̣n đứng
ở ngoài cửa, họ sắp khiêng cả chị đi
đấy! “10 Lập tức bà ta ngă
xuống dưới chân ông Phê-rô và tắt thở. Khi vào, các thanh niên thấy bà đă chết, liền
khiêng đi chôn bên cạnh chồng.11 Toàn thể Hội
Thánh và tất cả những ai nghe kể chuyện này
đều rất sợ hăi.
12 Nhiều dấu lạ điềm
thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay
các Tông Đồ.
13 Không một ai khác dám nhập đoàn với họ.
Nhưng dân th́ lại ca tụng họ.14 Càng ngày
càng có thêm nhiều người tin theo
Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông.
15 Người ta c̣n khiêng cả những kẻ
đau ốm ra tận đường phố đặt
trên giường trên chơng, để khi ông Phê-rô đi qua, ít
ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một
bệnh nhân nào đó.16 Nhiều người từ
các thành chung quanh Giê-ru-sa-lem cũng lũ lượt kéo
đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những
người bị thần ô uế ám, và tất cả
đều được chữa lành.
17 Bấy giờ, vị thượng tế
cùng tất cả những người theo
ông -tức là phái Xa-đốc- ra tay hành động. Đầy
ḷng ghen tức,18 họ bắt
các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng.
19 Nhưng ban đêm thiên sứ của
Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà
nói:20 “Các ông hăy đi, vào đứng
trong Đền Thờ mà nói cho dân những lời ban sự
sống.”21 Nghe thế, các ông vào Đền
Thờ ngay từ lúc rạng đông và bắt đầu giảng
dạy.
22 Nhưng khi thuộc hạ đến,
họ không thấy các ông trong ngục. Họ trở về báo cáo23 rằng:
“Chúng tôi thấy ngục đóng kỹ lưỡng và những
người lính canh đứng ở cửa; nhưng khi mở
cửa ra, chúng tôi không thấy ai ở bên trong.”24
Nghe những lời ấy, viên lănh binh Đền Thờ và
các thượng tế phân vân về các ông, không biết chuyện
ǵ xảy ra.25 Bấy giờ có một người
đến báo cáo cho họ: “Những người các ông
đă tống ngục, ḱa họ đang đứng trong
Đền Thờ và giảng dạy cho dân! “26
Viên lănh binh bèn đi với bọn thuộc hạ và điệu
các ông về, nhưng không dùng bạo lực v́ sợ bị
dân ném đá.
27 Họ điệu các ông đến giữa
Thượng Hội Đồng; vị thượng tế
hỏi các ông rằng:28 “Chúng tôi đă nghiêm cấm
các ông không được giảng dạy về danh ấy
nữa, thế mà các ông đă làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy
giáo lư của các ông, lại c̣n muốn cho máu người ấy
đổ trên đầu chúng tôi!”29 Bấy giờ
ông Phê-rô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng: “Phải
vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.30
Đức Giê-su đă bị các ông treo lên cây gỗ mà giết
đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đă làm cho
Người trỗi dậy,31 và Thiên Chúa đă ra
tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lănh
và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho
Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội.32 Về
những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với
Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đă ban cho những ai
vâng lời Người.”33 Nghe vậy,
họ giận điên lên và muốn giết các ông.
34 Bấy giờ
có một người Pha-ri-sêu tên là Ga-ma-li-ên đứng lên
giữa Thượng Hội Đồng; ông là một kinh
sư được toàn dân kính trọng. Ông truyền
đưa các đương sự ra ngoài một lát.35
Rồi ông nói với Thượng Hội Đồng:
“Thưa quư vị là người Ít-ra-en, xin quư vị coi chừng
điều quư vị sắp làm cho những người
này.36 Thời gian trước đây, có Thêu-đa nổi
lên, xưng ḿnh là một nhân vật và kết nạp
được khoảng bốn trăm người; ông ta
đă bị giết, và mọi kẻ theo ông cũng tan ră,
không c̣n ǵ hết.37 Sau ông, có Giu-đa người
Ga-li-lê nổi lên vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn
dân đi với ḿnh; cả ông này cũng bị diệt, và
tất cả những người theo ông ta đều bị
tan tác.38 Vậy giờ đây, tôi xin nói với quư vị:
hăy để mặc những người này. Cứ cho họ
về, v́ nếu ư định hay công việc này là do người
phàm, tất sẽ bị phá huỷ;39 c̣n nếu quả
thật là do Thiên Chúa, th́ quư vị không thể nào phá huỷ
được; không khéo quư vị lại thành những kẻ
chống Thiên Chúa.” Họ tán thành ư kiến của ông.
40 Họ cho gọi
các Tông Đồ lại mà đánh đ̣n và cấm các ông
không được nói đến danh Đức Giê-su, rồi
thả các ông ra.41 Các Tông Đồ ra khỏi
Thượng Hội Đồng, ḷng hân hoan bởi
được coi là xứng đáng chịu khổ nhục
v́ danh Đức Giê-su.
42 Mỗi ngày, trong Đền Thờ và tại
tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng
về Đức Ki-tô Giê-su.
6. 1 Thời đó,
khi số môn đệ thêm đông, th́ các tín hữu Do-thái
theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản
xứ, v́ trong việc phân phát lương thực hằng
ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên.2 Bởi
thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các
môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời
Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều
không phải.3 Vậy, thưa anh em, anh em hăy t́m trong
cộng đoàn bảy người được tiếng
tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ
cắt đặt họ làm công việc đó.4 C̣n
chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ
Lời Thiên Chúa.”5 Đề nghị trên được
mọi người tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô, một
người đầy ḷng tin và đầy Thánh Thần,
cùng với các ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô, Ni-ca-no, Ti-môn,
Pác-mê-na và ông Ni-cô-la, một người ngoại quê
An-ti-ô-khi-a đă theo đạo Do-thái.6 Họ
đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau
khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các
ông.
7 Lời Thiên Chúa
vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ
tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám
rất đông các tư tế đón nhận đức
tin.
8 Ông Tê-pha-nô
được đầy ân sủng và quyền năng,
đă làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao
trong dân.9 Có những người thuộc hội
đường gọi là hội đường của
nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Ky-rê-nê và
A-lê-xan-ri-a, cùng với một số người gốc
Ki-li-ki-a và A-xi-a, đứng lên tranh luận với ông
Tê-pha-nô.10 Nhưng họ không địch nổi lời
lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đă ban cho ông.11 Bấy
giờ, họ mới xui mấy người phao lên rằng:
“Chúng tôi đă nghe hắn nói lộng ngôn xúc phạm đến
ông Mô-sê và Thiên Chúa.”12 Họ sách động dân và các
kỳ mục cùng kinh sư, rồi ập đến bắt
ông và điệu đến Thượng Hội Đồng.13
Họ đưa mấy người chứng gian ra khai rằng:
“Tên này không ngừng nói những lời phạm đến
Nơi Thánh và Lề Luật.14 V́ chúng tôi đă nghe hắn
nói rằng Giê-su người Na-da-rét sẽ phá huỷ
nơi này và thay đổi những tục lệ mà ông Mô-sê
đă truyền lại cho chúng ta.”15 Toàn thể cử
toạ trong Thượng Hội Đồng đều nh́n
thẳng vào ông Tê-pha-nô, và họ thấy mặt ông giống
như mặt thiên sứ.
7. 1 Bấy giờ vị
thượng tế hỏi ông Tê-pha-nô: “Có đúng như vậy
không? “2 Ông đáp: “Thưa quư vị là những bậc
cha anh, xin nghe tôi đây: Thiên Chúa hiển vinh đă hiện
ra với ông Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta, khi ông c̣n đang ở
miền Mê-xô-pô-ta-mi-a, trước khi ông đến ở
Kha-ran.3 Người phán với ông: Hăy rời bỏ
xứ sở, họ hàng ngươi, và đến đất
Ta sẽ chỉ cho ngươi.4 Ông liền bỏ
xứ người Can-đê mà đến ở Kha-ran. Sau
khi thân phụ qua đời, Người bảo ông rời
nơi ấy đến đất này, nơi anh em hiện
đang ở.5 Người không ban cho ông sản
nghiệp nào ở đất này, dù một tấc đất
cũng không, nhưng hứa cho ông cũng như cho ḍng dơi
ông được chiếm hữu đất này, mặc dầu
bấy giờ ông không có con.6 Thiên Chúa phán với ông
rằng ḍng dơi ông sẽ trú ngụ nơi đất khách
quê người, và người ta sẽ bắt họ làm nô
lệ và ngược đăi họ trong ṿng bốn trăm
năm.7 Người lại phán: Nhưng Ta sẽ
xét xử dân đă bắt chúng làm nô lệ, và sau đó chúng
sẽ ra đi và sẽ thờ phượng Ta tại
nơi này.8 Rồi Người ban cho ông giao ước,
mà dấu chỉ là phép cắt b́; và như thế, sau khi
sinh ông I-xa-ác được tám ngày, ông làm phép cắt b́ cho
con; ông I-xa-ác cũng làm như thế cho ông Gia-cóp, và ông
Gia-cóp đă làm như thế cho mười hai tổ phụ.
9 “Các tổ phụ
ghen ông Giu-se nên đă bán ông cho người ta đưa sang
Ai-cập. Nhưng Thiên Chúa vẫn ở với ông.10
Người cứu ông khỏi mọi bước ngặt
nghèo, cho ông được cảm t́nh của Pha-ra-ô, vua Ai-cập,
và được khôn ngoan trước mặt nhà vua, khiến
nhà vua đặt ông làm tể tướng cai quản nước
Ai-cập và toàn thể hoàng cung.11 Rồi xảy ra
nạn đói trong cả nước Ai-cập và tại
Ca-na-an: đó là thời rất ngặt nghèo, và cha ông chúng ta
không t́m đâu ra lương thực.12 Khi ông Gia-cóp
nghe nói bên Ai-cập có lúa ḿ, liền sai cha ông chúng ta đi lần
thứ nhất.13 Rồi đến lần thứ
hai, th́ ông Giu-se cho các anh em nhận ra ḿnh; bấy giờ
Pha-ra-ô biết rơ gốc tích của ông Giu-se.14 Ông
Giu-se liền sai đi mời thân phụ là ông Gia-cóp, cùng với
tất cả họ hàng là bảy mươi lăm người.15
Vậy ông Gia-cóp xuống Ai-cập. Ông đă qua đời ở
đó, và cha ông chúng ta cũng vậy.16 Hài cốt
các ông được đưa về Si-khem và táng trong ngôi
mộ mà ông Áp-ra-ham đă bỏ tiền ra mua của con cái
Kha-mo tại Si-khem.
17 “Khi gần đến
thời thực hiện lời Thiên Chúa đă long trọng
hứa với ông Áp-ra-ham, th́ dân sinh sôi nảy nở ra nhiều
tại Ai-cập,18 cho đến khi một vua khác
lên trị v́ nước Ai-cập. Vua này không biết ông
Giu-se.19 Là người xảo quyệt, vua xử tệ
với ṇi giống chúng ta, ngược đăi cha ông chúng ta,
đến nỗi bắt các cụ phải đem trẻ sơ
sinh của ḿnh bỏ đi, không cho chúng sống.20
Chính vào thời đó, Mô-sê sinh ra. Đứa bé kháu khỉnh
trước mặt Thiên Chúa, lại chỉ được
nuôi ba tháng ở nhà thân phụ.21 Sau đó bị bỏ,
nhưng được con gái Pha-ra-ô rước về nuôi
làm con trai ḿnh.22 Cậu bé được dạy cho
biết tất cả về sự khôn ngoan của người
Ai-cập, và là người đầy uy thế trong lời
nói cũng như việc làm.
23 “Khi được
chẵn bốn mươi tuổi, ông Mô-sê nảy ra ư định
thăm viếng các anh em ḿnh là con cái Ít-ra-en.24 Thấy
một người anh em bị một người Ai-cập
làm hại, ông liền bênh, và để trả thù cho người
bị áp bức, ông đánh chết người Ai-cập.25
Ông tưởng các anh em ông sẽ hiểu rằng Thiên Chúa
dùng tay ông để ban ơn cứu độ cho họ;
nhưng họ th́ không hiểu.26 Ngày hôm sau, đang
khi họ đánh lộn th́ ông xuất hiện và dàn xếp
cho đôi bên làm hoà. Ông nói: “Này các người, các người
là anh em, tại sao lại xử tệ với nhau?27
Nhưng kẻ đang xử tệ với người
đồng bào gạt ông ra và nói: Ai đă đặt ông làm
người lănh đạo và người xét xử chúng
tôi?28 Hay là ông tính giết tôi, y như đă giết
tên Ai-cập hôm qua?29 Nghe câu nói ấy, ông Mô-sê liền
trốn đi và đến trú ngụ ở miền
Ma-đi-an. Ở đó ông sinh được hai con trai.
30 “Đúng bốn
mươi năm sau, một thiên sứ hiện ra với
ông tại sa mạc núi Xi-nai, trong ngọn lửa của một
bụi cây đang cháy.31 Ông Mô-sê ngạc nhiên khi thấy
thị kiến ấy. Đang khi ông lại gần để
xem cho rơ, th́ có tiếng Chúa phán với ông:32 Ta là
Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham,
I-xa-ác và Gia-cóp. Ông Mô-sê phát run lên, không dám nh́n nữa.33
Bấy giờ Chúa phán với ông: “Cởi dép ở chân ra, v́
nơi ngươi đang đứng là đất thánh!34
Ta đă thấy rơ cảnh khổ cực của dân Ta bên
Ai-cập và đă nghe tiếng chúng kêu than, nên Ta xuống giải
thoát chúng. Bây giờ, ngươi hăy đi! Ta sai ngươi
sang Ai-cập”.
35 “Ông Mô-sê này là
người mà họ đă từng chối bỏ khi nói: Ai
đă đặt ông làm người lănh đạo và người
xét xử? , th́ Thiên Chúa lại sai ông làm người lănh
đạo và cứu chuộc, qua trung gian vị thiên sứ
đă hiện ra với ông trong bụi gai.36 Chính ông
đă đưa họ ra, bằng cách làm những điềm
thiêng dấu lạ tại đất Ai-cập, trong Biển
Đỏ và trong sa mạc bốn mươi năm trường.37
Chính ông Mô-sê đó là người đă nói với con cái
Ít-ra-en: Từ giữa đồng bào của anh em, Thiên Chúa
sẽ cho đứng lên một ngôn sứ như tôi để
giúp anh em.38 Chính ông là người đă có mặt
trong đại hội ở sa mạc, bên cạnh vị
thiên sứ nói với ông trên núi Xi-nai, và bên cạnh cha ông
chúng ta. Chính ông đă đón nhận những lời hằng
sống để ban cho chúng ta.39 Nhưng cha ông
chúng ta đă không muốn vâng lời ông; họ đă gạt
ông ra và trong thâm tâm, họ đă quay lại Ai-cập.40
Họ nói với ông A-ha-ron: Xin ông làm cho chúng tôi những vị
thần dẫn đầu chúng tôi, v́ cái ông Mô-sê, người
đă đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập,
chúng tôi không biết chuyện ǵ đă xảy ra cho ông ta.41
Trong những ngày ấy, họ đă làm tượng một
con bê, họ dâng lễ tế cho ngẫu tượng ấy
và ăn mừng công tŕnh tay họ làm ra.42 Bấy giờ
Thiên Chúa xoay mặt họ đi, và để mặc họ
thờ thiên binh, như có lời chép trong sách các ngôn sứ:
Hỡi nhà Ít-ra-en, bốn mươi năm trường
trong sa mạc,
các ngươi có dâng lên Ta vật hy sinh và lễ tế nào
đâu?
43 Các ngươi
đă kiệu lều của thần Mô-lóc
và ngôi sao của thần Rê-phan,
là những ảnh tượng các ngươi đă làm ra
để thờ;
nên Ta đă đày các ngươi tới bên kia Ba-by-lon.
44 “Khi ở trong sa
mạc, cha ông chúng ta có Lều chứng ước, như
Đấng phán với ông Mô-sê đă truyền phải làm
theo kiểu mẫu ông đă thấy.45 Lều ấy,
cha ông chúng ta đă kế thừa, và đă cùng với ông
Giô-suê, đem vào đất chiếm được của
các dân ngoại mà Thiên Chúa đă đuổi đi khuất mắt
các ông. Lều ở lại đó cho đến thời vua
Đa-vít.46 Vua này đẹp ḷng Thiên Chúa và đă xin
được t́m một ngôi nhà cho Thiên Chúa của Gia-cóp.47
Nhưng chính vua Sa-lô-môn mới xây nhà cho Người.48
Tuy nhiên, Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi
nhà do tay người phàm làm ra, như lời ngôn sứ
đă nói:
49 Chúa phán: Trời
là ngai của Ta,
c̣n đất là bệ dưới chân Ta.
Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào,
và nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi
50 Chẳng phải
chính tay Ta đă làm nên mọi sự ấy sao?
51 “Hỡi những
người cứng đầu cứng cổ, ḷng và tai
không cắt b́, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần.
Cha ông các ông thế nào, th́ các ông cũng vậy.52 Có
ngôn sứ nào mà cha ông các ông không bắt bớ? Họ đă
giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ
đến; c̣n các ông, nay đă trở thành những kẻ
phản bội và sát hại Đấng ấy.53
Các ông là những người đă lănh nhận Lề Luật
do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ.”
54 Khi nghe những
lời ấy, ḷng họ giận điên lên, và họ nghiến
răng căm thù ông Tê-pha-nô.
55 Được
đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nh́n
trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức
Giê-su đứng bên hữu Thiên Chúa.56 Ông nói: “Ḱa,
tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng
bên hữu Thiên Chúa.”57 Họ liền kêu lớn tiếng,
bịt tai lại và nhất tề xông vào ông58 rồi
lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo ḿnh
dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô.59 Họ
ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy
Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con.”60 Rồi
ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy
Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi,
ông an nghỉ.
8. 1 Phần ông
Sao-lô, ông tán thành việc giết ông Tê-pha-nô.
Hồi ấy, Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem trải qua một
cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ
ra, mọi người đều phải tản mác về
các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri.
2 Có mấy người sùng đạo chôn cất
ông Tê-pha-nô và khóc thương ông thảm thiết.
3 C̣n ông Sao-lô th́ cứ phá hoại Hội Thánh: ông
đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà
đi tống ngục.
4 Vậy những
người phải tản mác này đi khắp nơi loan
báo lời Chúa.
5 Ông Phi-líp-phê xuống một thành miền Sa-ma-ri và
rao giảng Đức Ki-tô cho dân cư ở đó.6
Đám đông một ḷng chú ư đến những điều
ông Phi-líp-phê giảng, bởi được nghe đồn
và được chứng kiến những dấu lạ
ông làm.7 Thật vậy, các thần ô uế vừa
kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người
trong số những kẻ bị chúng ám. Nhiều người
tê bại và tàn tật được chữa lành.8
Trong thành, người ta rất vui mừng.
9 Trong thành ấy,
có một người tên là Si-môn, vốn dùng phù phép làm cho
dân Sa-ma-ri kinh ngạc. Ông ta xưng ḿnh là một nhân vật
quan trọng,10 và mọi người từ nhỏ
đến lớn đều chú ư đến ông. Họ nói:
“Ông này là Quyền năng của Thiên Chúa, Quyền năng
được gọi là “Vĩ đại”.”11 Họ
chú ư đến ông, v́ từ khá lâu ông đă dùng phù phép làm cho
họ kinh ngạc.12 Nhưng khi họ tin lời
ông Phi-líp-phê loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa và
về danh Đức Giê-su Ki-tô, th́ họ đă chịu phép
rửa, có cả đàn ông lẫn đàn bà.13 Cả
ông Si-môn nữa cũng đă tin theo, và sau khi chịu phép rửa,
ông cứ theo sát ông Phi-líp-phê, và kinh ngạc v́ được
thấy các dấu lạ và các phép mầu vĩ đại
xảy ra.
14 Các Tông Đồ
ở Giê-ru-sa-lem nghe biết dân miền Sa-ma-ri đă đón
nhận lời Thiên Chúa, th́ cử ông Phê-rô và ông Gio-an đến
với họ.15 Khi đến nơi, hai ông cầu
nguyện cho họ, để họ nhận được
Thánh Thần.16 V́ Thánh Thần chưa ngự xuống
một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép
rửa nhân danh Chúa Giê-su.17 Bấy giờ hai ông
đặt tay trên họ, và họ nhận được
Thánh Thần.
18 Ông Si-môn thấy
khi các Tông Đồ đặt tay, th́ Thánh Thần
được ban xuống, nên ông đem tiền đến
biếu các ông19 và nói: “Xin cũng ban quyền ấy
cho tôi nữa, để tôi đặt tay cho ai th́ người
ấy nhận được Thánh Thần.”20
Nhưng ông Phê-rô đáp: “Tiền bạc của anh tiêu tan
luôn với anh cho rồi, v́ anh tưởng có thể lấy
tiền mà mua ân huệ của Thiên Chúa!21 Chẳng
có phần chia cho anh, cũng chẳng có phần thừa kế
trong việc này đâu, v́ ḷng anh không ngay thẳng trước
mặt Thiên Chúa.22 Vậy anh hăy sám hối về việc
xấu ấy của anh, và cầu xin Chúa, may ra Người
sẽ tha cho anh tội đă nghĩ như thế trong ḷng.23
Thật vậy, tôi thấy anh đang ứ đầy mật
đắng và đang bị tội ác trói buộc.”24
Ông Si-môn thưa: “Xin hai ông cầu cùng Chúa cho tôi, để
không điều nào trong những điều các ông đă nói
giáng xuống trên tôi.”
25 Sau khi đă long
trọng làm chứng và nói lời Chúa, hai Tông Đồ trở
về Giê-ru-sa-lem và loan Tin Mừng cho nhiều làng miền
Sa-ma-ri.
26 Thiên sứ của
Chúa nói với ông Phi-líp-phê: “Đứng lên, đi về
hướng nam, theo con đường từ Giê-ru-sa-lem xuống
Ga-da; con đường này vắng.”27 Ông đứng
lên đi. Khi ấy có một viên thái giám người
Ê-thi-óp, làm quan lớn trong triều của bà Can-đa-kê, nữ
hoàng nước Ê-thi-óp. Ông này làm tổng quản kho bạc
của bà. Ông đă lên Giê-ru-sa-lem hành hương28
và bấy giờ đang trên đường về. Ngồi
trên xe nhà, ông đọc sách ngôn sứ I-sai-a.29 Thần
Khí nói với ông Phi-líp-phê: “Tiến lên, đuổi kịp
xe đó.”30 Ông Phi-líp-phê chạy lại, nghe thấy
ông kia đọc sách ngôn sứ I-sai-a, th́ hỏi: “Ngài có hiểu
điều ngài đọc không? “31 Ông quan đáp:
“Mà làm sao tôi hiểu được, nếu không có người
dẫn giải? ” Rồi ông mời ông Phi-líp-phê lên ngồi
với ḿnh.32 Đoạn Kinh Thánh ông đang đọc
là đoạn này: Như chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng
mở miệng kêu ca.33 Bởi Người bị hạ
xuống, nên bản án của Người đă được
huỷ bỏ. Ḍng dơi Người, ai sẽ kể lại,
v́ cuộc sống của Người trên trần gian
đă bị chấm dứt.
34 Viên thái giám ngỏ
lời với ông Phi-líp-phê: “Xin ông cho biết: vị ngôn sứ
nói thế về ai? Về chính ḿnh hay về một ai khác?
“35 Ông Phi-líp-phê lên tiếng, và khởi từ đoạn
Kinh Thánh ấy mà loan báo Tin Mừng Đức Giê-su cho ông.
36 Dọc
đường, các ông tới một chỗ có nước,
viên thái giám mới nói: “Sẵn nước đây, có ǵ
ngăn trở tôi chịu phép rửa không? “37 Ông
Phi-líp-phê đáp: “Nếu ngài tin hết ḷng, th́ được.”
Viên thái giám thưa: “Tôi tin Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên
Chúa.”38 Ông truyền dừng xe lại. Ông Phi-líp-phê
và viên thái giám, cả hai cùng xuống chỗ có nước,
và ông Phi-líp-phê làm phép rửa cho ông quan.39 Khi hai ông
lên khỏi nước, Thần Khí Chúa đem ông Phi-líp-phê
đi mất, và viên thái giám không c̣n thấy ông nữa.
Nhưng ông tiếp tục cuộc hành tŕnh, ḷng đầy
hoan hỷ.40 C̣n ông Phi-líp-phê th́ người ta gặp
thấy ở Át-đốt. Ông loan báo Tin Mừng cho mọi
thành thị ông đi qua, cho tới khi đến Xê-da-rê.
9. 1 Ông Sao-lô vẫn c̣n hằm hằm đe doạ
giết các môn đệ Chúa, nên đă tới gặp thượng
tế2 xin thư giới thiệu đến các hội
đường ở Đa-mát, để nếu thấy
những người theo Đạo, bất luận đàn
ông hay đàn bà, th́ bắt trói giải về Giê-ru-sa-lem.
3 Vậy đang
khi ông đi đường và đến gần Đa-mát,
th́ bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu
xuống bao phủ lấy ông.4 Ông ngă xuống đất
và nghe có tiếng nói với ông: “Sa-un, Sa-un, tại sao
ngươi bắt bớ Ta? “5 Ông nói: “Thưa Ngài,
Ngài là ai? ” Người đáp: “Ta là Giê-su mà ngươi
đang bắt bớ.6 Nhưng ngươi hăy đứng
dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi
biết ngươi phải làm ǵ.”7 Những người
cùng đi với ông dừng lại, sững sờ: họ
nghe có tiếng nói, nhưng không trông thấy ai.8 Ông
Sao-lô từ dưới đất đứng dậy, mắt
th́ mở nhưng không thấy ǵ. Người ta phải cầm
tay dắt ông vào Đa-mát.9 Suốt ba ngày, ông không
nh́n thấy, cũng chẳng ăn, chẳng uống.
10 Bấy giờ ở
Đa-mát có một môn đệ tên là Kha-na-ni-a. Trong một
thị kiến, Chúa phán với ông: “Kha-na-ni-a! ” Ông thưa:
“Dạ, lạy Chúa, con đây.”11 Chúa bảo ông:
“Đứng lên, đi tới phố gọi là Phố Thẳng,
đến nhà Giu-đa t́m một người tên là Sao-lô quê
ở Tác-xô: người ấy đang cầu nguyện12
và thấy một người tên là Kha-na-ni-a đi vào, đặt
tay trên ḿnh để làm cho ḿnh lại thấy được.”13
Ông Kha-na-ni-a thưa: “Lạy Chúa, con đă nghe lắm kẻ
nói về người ấy, về tất cả những
điều ác người ấy đă làm cho dân thánh Chúa tại
Giê-ru-sa-lem.14 C̣n ở đây, người ấy
được các thượng tế cho quyền bắt
trói tất cả những ai kêu cầu danh Chúa.”15
Nhưng Chúa phán với ông: “Cứ đi, v́ người ấy
là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến
trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái
Ít-ra-en.16 Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho
người ấy thấy tất cả những đau khổ
người ấy phải chịu v́ danh Ta.”17 Ông
Kha-na-ni-a liền đi; ông vào nhà, đặt tay trên ông Sao-lô
và nói: “Anh Sa-un, Chúa đă sai tôi đến đây, Người
là Đức Giê-su, Đấng đă hiện ra với anh
trên đường anh tới đây. Người sai tôi
đến để anh lại thấy được và
để anh được đầy Thánh Thần.”18
Lập tức có những cái ǵ như vảy bong ra khỏi
mắt ông Sao-lô, và ông lại thấy được. Ông
đứng dậy và chịu phép rửa.19 Rồi
ông ăn và khoẻ lại.
20 rồi lập tức
ông bắt đầu rao giảng Đức Giê-su trong các hội
đường, rằng Người là Con Thiên Chúa.21
Mọi người nghe ông giảng đều kinh ngạc
và nói: “Ông này chẳng phải là người ở
Giê-ru-sa-lem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh
Giê-su sao? Chẳng phải ông đă đến đây với
mục đích bắt trói họ giải về cho các
thượng tế sao? “22 Nhưng ông Sao-lô càng thêm
vững mạnh, và ông làm cho người Do-thái ở
Đa-mát phải bẽ mặt, khi minh chứng rằng
Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a.
23 Sau một thời
gian khá lâu, người Do-thái cùng nhau bàn kế giết ông
Sao-lô;24 nhưng ông biết được âm mưu
của họ. Thậm chí người ta canh giữ các cửa
thành ngày đêm, để giết ông.25 Nhưng ban
đêm, các môn đệ ông đă đưa ông qua tường
thành bằng cách đặt ông ngồi trong một cái thúng rồi
ḍng dây thả xuống.
26 Khi tới
Giê-ru-sa-lem, ông Sao-lô t́m cách nhập đoàn với các môn
đệ. Nhưng mọi người vẫn c̣n sợ
ông, v́ họ không tin ông là một môn đệ.27 Ông
Ba-na-ba liền đứng ra bảo lănh đưa ông Sao-lô
đến gặp các Tông Đồ, và tường thuật
cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa
hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng
như việc ông ấy đă mạnh dạn rao giảng
nhân danh Đức Giê-su tại Đa-mát thế nào.28
Từ đó ông Sao-lô cùng với các Tông Đồ đi lại
hoạt động tại Giê-ru-sa-lem. Ông mạnh dạn
rao giảng nhân danh Chúa.29 Ông thường đàm
đạo và tranh luận với những người
Do-thái theo văn hoá Hy-lạp. Nhưng họ t́m cách giết
ông.30 Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống
Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô.
31 Hồi ấy,
trong khắp miền Giu-đê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri, Hội Thánh
được b́nh an, được xây dựng vững chắc
và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm
đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ.
32 Bấy giờ
ông Phê-rô rảo khắp nơi, xuống thăm cả dân thánh
cư ngụ tại Lốt.33 Nơi đây ông gặp
thấy một người tên là Ê-nê liệt giường
đă tám năm, v́ anh bị tê bại.34 Ông Phê-rô nói
với anh ta: “Anh Ê-nê, Đức Giê-su Ki-tô chữa anh khỏi.
Anh hăy đứng dậy và tự dọn giường lấy.”
Lập tức anh đứng dậy.35 Tất cả
những người cư ngụ ở Lốt và đồng
bằng Sa-ron thấy anh, và họ trở lại cùng Chúa.
36 Ở Gia-phô,
trong số các môn đệ có một bà tên là Ta-bi-tha, có
nghĩa là Linh Dương. Bà này đầy công đức
v́ những việc lành và bố thí bà đă làm.37
Trong những ngày ấy, bà mắc bệnh và qua đời.
Người ta tắm xác cho bà và đặt ở lầu
trên.38 V́ Lốt gần Gia-phô, nên khi các môn đệ
nghe biết ông Phê-rô ở đó, liền cử hai người
đến mời: “Xin ông đến với chúng tôi, đừng
tŕ hoăn.”
39 Ông Phê-rô đứng
dậy cùng đi với họ. Tới nơi, người
ta đưa ông lên lầu trên. Các bà goá xúm lại quanh ông, vừa
khóc vừa cho ông xem những áo dài và áo choàng bà Linh
Dương đă may khi c̣n sống với họ.40
Ông Phê-rô cho mọi người ra ngoài, rồi quỳ xuống
cầu nguyện. Sau đó, ông quay lại về phía thi hài
và ra lệnh: “Bà Ta-bi-tha, hăy đứng dậy! ” Bà ấy mở
mắt ra, và khi thấy ông Phê-rô, liền ngồi dậy.41
Ông đưa tay đỡ bà đứng dậy, rồi gọi
dân thánh và các bà goá lại và cho thấy bà đang sống.42
Cả thành Gia-phô đều biết việc này, và có nhiều
người tin vào Chúa.
43 Ông Phê-rô ở lại
Gia-phô khá lâu, tại nhà một người thợ thuộc
da tên là Si-môn.
10. 1 Ở Xê-da-rê có một
người tên là Co-nê-li-ô làm đại đội trưởng
thuộc cơ đội gọi là cơ đội
I-ta-li-a.2 Ông là người đạo đức và
kính sợ Thiên Chúa, cũng như cả nhà ông; ông rộng
tay cứu trợ dân và luôn luôn cầu nguyện cùng Thiên
Chúa.
3 Một hôm, vào
khoảng giờ thứ chín, trong một thị kiến ông
thấy rơ ràng một thiên sứ của Thiên Chúa vào nhà ông và
nói: “Co-nê-li-ô! “4 Ông nh́n thẳng vào thiên sứ và phát
sợ, ông nói: “Thưa ngài, có việc chi vậy? ” Thiên sứ
đáp: “Lời cầu nguyện và việc cứu trợ của
ông đă thấu toà Thiên Chúa khiến Người nhớ
đến ông.5 Vậy bây giờ ông hăy sai người
đi Gia-phô mời một người tên là Si-môn, cũng gọi
là Phê-rô.6 Ông ấy trọ tại nhà một người
thợ thuộc da tên là Si-môn, ở gần bờ biển.”7
Khi vị thiên sứ nói với ông Co-nê-li-ô vừa đi khỏi,
ông gọi hai người nhà và một người lính
đạo đức trong số những người vẫn
ở dưới quyền ông.8 Ông kể cho họ
nghe tất cả sự việc, rồi sai họ đi
Gia-phô.
9 Hôm sau, đang
khi họ đi đường và đến gần Gia-phô,
th́ ông Phê-rô lên sân thượng cầu nguyện; lúc đó,
vào khoảng giờ thứ sáu.10 Ông thấy đói
và muốn ăn. Đang khi người ta dọn bữa
th́ ông xuất thần.11 Ông thấy trời mở
ra và một vật ǵ sà xuống, trông như một tấm
khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả
xuống đất.12 Trong đó có mọi giống
vật bốn chân và rắn rết sống trên đất,
cùng mọi thứ chim trời.13 Có tiếng phán bảo
ông: “Phê-rô, đứng dậy, làm thịt mà ăn! “14
Ông Phê-rô thưa: “Lạy Chúa, không thể được, v́
không bao giờ con ăn những ǵ ô uế và không thanh sạch.”15
Lại có tiếng phán bảo ông lần thứ hai: “Những
ǵ Thiên Chúa đă tuyên bố là thanh sạch, th́ ngươi
chớ gọi là ô uế.”16 Việc ấy xảy
ra đến ba lần, và lập tức vật ấy
được đưa lên trời.
17 Ông Phê-rô c̣n
đang phân vân tự hỏi thị kiến ông vừa thấy
có ư nghĩa ǵ, th́ những người ông Co-nê-li-ô sai đi
đă hỏi ra được nhà ông Si-môn, và họ đang
đứng trước cổng.18 Họ lớn tiếng
hỏi có phải ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, trọ ở
đấy không.19 Ông Phê-rô vẫn c̣n phân vân về
thị kiến, th́ Thần Khí bảo ông: “Ḱa có ba người
đang t́m ngươi.20 Đứng lên, xuống mà
đi với họ, đừng ngần ngại ǵ, v́ chính
Ta đă sai họ đến.”21 Ông Phê-rô xuống với
những người ấy và nói: “Tôi đây chính là người
các ông đang t́m. V́ lư do nào các ông đến đây? “22
Họ đáp: “Ông đại đội trưởng
Co-nê-li-ô, một người công chính, kính sợ Thiên Chúa và
được toàn dân Do-thái chứng nhận là tốt,
đă được một thánh thiên sứ linh báo là phải
cho mời ông đến nhà, để được nghe
các lời ông dạy.”23 Ông Phê-rô liền rước
họ vào và mời họ nghỉ lại.
24 Hôm sau nữa,
ông vào Xê-da-rê. Bấy giờ ông Co-nê-li-ô đang đợi;
ông đă cho mời thân bằng quyến thuộc đến.25
Khi ông Phê-rô bước vào, th́ ông Co-nê-li-ô liền ra đón
và phủ phục dưới chân ông mà bái lạy.26
Nhưng ông Phê-rô đỡ ông ấy lên và nói: “Xin ông đứng
dậy, v́ bản thân tôi đây cũng chỉ là người
phàm.”27 Rồi ông vừa nói chuyện với ông
Co-nê-li-ô, vừa đi vào. Thấy có đông người tụ
họp ở đó,28 ông nói với họ: “Quư vị
thừa biết: giao du hay vào nhà một người khác chủng
tộc là điều cấm kỵ đối với
người Do-thái. Nhưng tôi th́ Thiên Chúa đă cho tôi thấy
là không được gọi ai là ô uế hay không thanh sạch.29
V́ thế khi được mời, tôi đă đến mà
không hề chống căi. Vậy tôi xin hỏi: v́ lẽ nào
quư vị đă mời tôi đến? “30 Ông
Co-nê-li-ô trả lời: “Cách đây bốn hôm, vào khoảng
giờ này, lúc tôi đang đọc kinh giờ chín tại
nhà, bỗng có một người đứng trước
mặt tôi, y phục rực rỡ.31 Người ấy
nói với tôi: “Ông Co-nê-li-ô, Thiên Chúa đă nhận lời cầu
nguyện của ông và nhớ đến việc cứu trợ
của ông.32 Vậy ông hăy sai người đi
Gia-phô mời ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô; ông ấy trọ
tại nhà ông Si-môn, thợ thuộc da, ở gần bờ
biển.33 Lập tức tôi đă sai người
đến mời ông, và ông đă có ḷng tốt đến
đây. Vậy bây giờ tất cả chúng tôi đang ở
trước mặt Thiên Chúa, để nghe tất cả những
ǵ Người đă truyền cho ông.”
34 Bấy giờ
ông Phê-rô lên tiếng nói: “Quả thật, tôi biết rơ Thiên
Chúa không thiên vị người nào.35 Nhưng hễ
ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, th́ dù thuộc bất
cứ dân tộc nào, cũng đều được
Người tiếp nhận.
36 “Người
đă gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo
Tin Mừng b́nh an, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của
mọi người.37 Quư vị biết rơ biến
cố đă xảy ra trong toàn cơi Giu-đê, bắt đầu
từ miền Ga-li-lê, sau phép rửa mà ông Gio-an rao giảng.38
Quư vị biết rơ: Đức Giê-su xuất thân từ
Na-da-rét, Thiên Chúa đă dùng Thánh Thần và quyền năng mà
xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu
là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi
kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi v́ Thiên Chúa ở
với Người.39 C̣n chúng tôi đây xin làm chứng
về mọi việc Người đă làm trong cả vùng
dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đă treo Người
lên cây gỗ mà giết đi.40 Ngày thứ ba, Thiên
Chúa đă làm cho Người trỗi dậy, và cho Người
xuất hiện tỏ tường,41 không phải
trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những
chứng nhân Thiên Chúa đă tuyển chọn từ trước,
là chúng tôi, những kẻ đă được cùng ăn
cùng uống với Người, sau khi Người từ
cơi chết sống lại.42 Người truyền
cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng
rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt
làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ
chết.43 Tất cả các ngôn sứ đều
làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào
Người th́ sẽ nhờ danh Người mà được
ơn tha tội.”
44 Ông Phê-rô c̣n
đang nói những điều đó, th́ Thánh Thần đă
ngự xuống trên tất cả những người
đang nghe lời Thiên Chúa.45 Những tín hữu thuộc
giới cắt b́ cùng đến đó với ông Phê-rô đều
kinh ngạc v́ thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống
trên cả các dân ngoại nữa,46 bởi họ
nghe những người này nói các thứ tiếng và tán
dương Thiên Chúa. Bấy giờ ông Phê-rô nói rằng:47
“Những người này đă nhận được Thánh
Thần cũng như chúng ta, th́ ai có thể ngăn cản
chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ? “48
Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức
Giê-su Ki-tô. Sau đó họ xin ông ở lại ít ngày.
11. 1 Các Tông Đồ
và các anh em ở miền Giu-đê nghe tin là cả dân ngoại
cũng đă đón nhận lời Thiên Chúa.2 Khi ông
Phê-rô lên Giê-ru-sa-lem, các người thuộc giới cắt
b́ chỉ trích ông,3 họ nói: “Ông đă vào nhà những
kẻ không cắt b́ và cùng ăn uống với họ! “4
Bấy giờ ông Phê-rô bắt đầu tŕnh bày cho họ
đầu đuôi sự việc, ông nói:5 “Tôi
đang cầu nguyện tại thành Gia-phô, th́ trong lúc xuất
thần, tôi thấy thị kiến này: có một vật ǵ
sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc
bốn góc, từ trời thả xuống đến tận
chỗ tôi.6 Nh́n chăm chú và xem xét kỹ, tôi thấy
các giống vật bốn chân sống trên đất, các
thú rừng, rắn rết và chim trời.7 Và tôi nghe
có tiếng phán bảo tôi: “Phê-rô, đứng dậy, làm thịt
mà ăn!8 Tôi đáp: “Lạy Chúa, không thể
được, v́ những ǵ ô uế và không thanh sạch
không bao giờ lọt vào miệng con!9 Có tiếng từ
trời phán lần thứ hai: “Những ǵ Thiên Chúa đă
tuyên bố là thanh sạch, th́ ngươi chớ gọi là
ô uế!10 Việc ấy xảy ra đến ba lần,
rồi tất cả lại được kéo lên trời.
11 “Ngay lúc đó, có
ba người đến nhà chúng tôi ở: họ được
sai từ Xê-da-rê đến gặp tôi.12 Thần Khí
bảo tôi đi với họ, đừng ngần ngại
ǵ. Có sáu anh em đây cùng đi với tôi. Chúng tôi đă vào
nhà ông Co-nê-li-ô.13 Ông này thuật lại cho chúng tôi
nghe việc ông đă thấy thiên sứ đứng trong nhà
ông và bảo: “Hăy sai người đi Gia-phô mời ông
Si-môn, cũng gọi là Phê-rô.14 Ông ấy sẽ nói với
ông những lời nhờ đó ông và cả nhà ông sẽ
được cứu độ.
15 “Tôi vừa mới
bắt đầu nói, th́ Thánh Thần đă ngự xuống
trên họ, như đă ngự xuống trên chúng ta lúc ban
đầu.16 Tôi sực nhớ lại lời Chúa
nói rằng: “Ông Gio-an th́ làm phép rửa bằng nước,
c̣n anh em th́ sẽ được rửa trong Thánh Thần.17
Vậy, nếu Thiên Chúa đă ban cho họ cùng một ân huệ
như Người đă ban cho chúng ta, v́ chúng ta tin vào Chúa
Giê-su Ki-tô, th́ tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa? ”
18 Nghe thế, họ
mới chịu im, và họ tôn vinh Thiên Chúa mà nói: “Vậy ra
Thiên Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để
được sự sống!”
19 Vậy những
người phải tản mác v́ cuộc bách hại xảy
ra nhân vụ ông Tê-pha-nô, đi đến tận miền
Phê-ni-xi, đảo Sưp và thành An-ti-ô-khi-a. Họ không rao giảng
lời Chúa cho ai ngoài người Do-thái.20 Nhưng
trong nhóm, có mấy người gốc Sưp và Ky-rê-nê; những
người này, khi đến An-ti-ô-khi-a, đă giảng cho
cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa
Giê-su cho họ.21 V́ có bàn tay Chúa ở với họ,
nên một số đông đă tin và trở lại cùng Chúa.
22 Tin ấy đến
tai Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem, nên người ta cử
ông Ba-na-ba đi An-ti-ô-khi-a.23 Khi tới nơi và thấy
ơn Thiên Chúa như vậy, ông Ba-na-ba mừng rỡ và
khuyên nhủ ai nấy bền ḷng gắn bó cùng Chúa,24
v́ ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần
và ḷng tin. Và đă có thêm một đám rất đông theo
Chúa.
25 Ông Ba-na-ba trẩy
đi Tác-xô t́m ông Sao-lô.26 T́m được rồi,
ông đưa ông Sao-lô đến An-ti-ô-khi-a. Hai ông cùng làm việc
trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng dạy
cho rất nhiều người. Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần
đầu tiên các môn đệ được gọi là
Ki-tô hữu.
27 Trong những
ngày ấy, có những ngôn sứ từ Giê-ru-sa-lem xuống
An-ti-ô-khi-a.28 Một trong những người ấy
tên là A-ga-bô đứng lên và được Thần Khí soi
sáng, báo trước là sẽ có nạn đói lớn trong khắp
cả thiên hạ; đó là nạn đói xảy ra dưới
thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô.29 Các môn
đệ mới quyết định là mỗi người
tuỳ theo khả năng, sẽ gửi quà giúp đỡ
anh em ở miền Giu-đê.30 Và họ đă làm việc
ấy: gửi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông
Ba-na-ba và ông Sao-lô.
12. 1 Thời kỳ ấy, vua Hê-rô-đê
ra tay ngược đăi một số người trong Hội
Thánh.2 Nhà vua đă cho chém đầu ông Gia-cô-bê là anh
ông Gio-an.3 Thấy việc đó làm vừa ḷng
người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phê-rô nữa.
Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men.4
Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục
và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn
người, định sau lễ Vượt Qua sẽ
điệu ông ra cho dân chúng.5 Đang khi ông Phê-rô bị
giam giữ như thế, th́ Hội Thánh không ngừng dâng
lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.
6 Trong đêm
trước ngày bị vua Hê-rô-đê đem ra xử, ông
Phê-rô ngủ giữa hai người lính, và bị khoá vào hai
cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh.7
Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và
ánh sáng chói rực cả pḥng giam. Thiên sứ đập vào
cạnh sườn ông Phê-rô, đánh thức ông và bảo:
“Đứng dậy mau đi! ” Xiềng xích liền tuột
khỏi tay ông.8 Thiên sứ nói tiếp: “Thắt
lưng lại và xỏ dép vào! ” Ông làm như vậy. Rồi
thiên sứ lại bảo ông: “Khoác áo choàng vào và đi theo
tôi! “9 Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên
sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là ḿnh
thấy một thị kiến.10 Qua vọng canh thứ
nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới
trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự
động mở ra trước mặt hai người. Ra
đến ngoài, đi hết một đường phố,
th́ bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi.11 Lúc ấy
ông Phê-rô mới hoàn hồn và nói: “Bây giờ tôi biết thực
sự là Chúa đă sai thiên sứ của Người đến,
và Người đă cứu tôi thoát khỏi tay vua
Hê-rô-đê, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn
tôi phải chịu.”
12 Ư thức
được như vậy, ông đi đến nhà bà
Ma-ri-a, mẹ của ông Gio-an, cũng gọi là Mác-cô; ở
đó có khá đông người đang tụ họp và cầu
nguyện.13 Ông đập cổng th́ có một
người tớ gái tên là Rô-đê ra nghe ngóng.14 Nhận
ra tiếng ông Phê-rô, cô mừng quưnh, không mở cổng, mà lại
chạy vào báo tin ông Phê-rô đang đứng ngoài cổng.15
Người ta bảo cô: “Đồ khùng! ” Nhưng cô ấy
cứ quả quyết là đúng như vậy. Họ nói:
“Thiên sứ của ông ấy đấy! “16 Trong khi
đó, ông Phê-rô tiếp tục đập cổng. Mở cổng
ra, thấy ông, họ kinh ngạc.17 Ông giơ tay làm
hiệu bảo họ im lặng, rồi kể cho họ
nghe Chúa đă đưa ông ra khỏi tù thế nào. Ông nói:
“Xin báo tin này cho ông Gia-cô-bê và cho các anh em.” Rồi ông ra
đi, đến một nơi khác.
18 Sáng ra, bọn
lính nhốn nháo không ít: ông Phê-rô đă ra sao rồi?19Vua
Hê-rô-đê cho truy nă ông: bởi không t́m ra, nhà vua tra hỏi
lính canh và ra lệnh điệu họ đi xử. Rồi
nhà vua bỏ miền Giu-đê xuống ở Xê-da-rê.
20 Nhà vua đang tức
tối với dân thành Tia và Xi-đôn. Họ đồng tâm
nhất trí đến yết kiến nhà vua. Sau khi đă mua
chuộc được quan thị vệ của vua là
Bơ-lát-tô, họ cầu hoà, v́ lănh thổ của họ phải
nhờ lănh thổ của nhà vua cung cấp lương thực.21
Đến ngày hẹn, vua Hê-rô-đê mặc cẩm bào, ngồi
trên ngai, ngỏ lời với họ.22 Dân hoan hô:
“Tiếng thần minh, chứ không phải tiếng người
phàm! “23 Nhưng ngay lúc đó, thiên sứ của Chúa
đánh phạt nhà vua, v́ nhà vua đă không tôn vinh Thiên Chúa. Nhà
vua bị gịi bọ rúc rỉa nên đă tắt thở.
24 Trong khi ấy, lời
Thiên Chúa vẫn lan tràn và phát triển.25 C̣n ông Ba-na-ba
và ông Sao-lô, sau khi đă chu toàn công việc phục vụ tại
Giê-ru-sa-lem th́ trở về, đem theo ông Gio-an, cũng gọi
là Mác-cô.
13. 1 Trong Hội Thánh tại An-ti-ô-khi-a,
có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông
Ba-na-ba, Si-mê-ôn biệt hiệu là Đen, Lu-ki-ô người
Ky-rê-nê, Ma-na-en, bạn thời thơ ấu của tiểu
vương Hê-rô-đê, và Sao-lô.2 Một hôm, đang
khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay,
th́ Thánh Thần phán bảo: “Hăy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta,
để lo công việc Ta đă kêu gọi hai người ấy
làm.”3 Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện,
rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.
4 Vậy,
được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống
Xê-lêu-ki-a, rồi từ đó đáp tàu đi đảo
Sưp.5 Đến Xa-la-min, hai ông loan báo lời Thiên
Chúa trong các hội đường người Do-thái. Có ông
Gio-an giúp hai ông.
6 Các ông đi xuyên
qua đảo đến Pa-phô; ở đây các ông gặp một
người phù thuỷ, mạo xưng là ngôn sứ; ông này
là người Do-thái, tên là Ba-giê-su.7 Ông ta ở với
thống đốc Xéc-ghi-ô Phao-lô, một người thông
minh. Thống đốc cho mời ông Ba-na-ba và ông Sao-lô
đến và ước ao được nghe lời Thiên
Chúa.8 Nhưng người phù thủy ấy, tên Hy-lạp
là Ê-ly-ma, chống lại hai ông và t́m cách ngăn cản thống
đốc tin Chúa.9 Bấy giờ ông Sao-lô, cũng
gọi là Phao-lô, được đầy Thánh Thần,
nh́n thẳng vào người phù thuỷ,10 và nói: “Hỡi
kẻ đầy mọi thứ mưu mô và mọi tṛ xảo
trá, hỡi con cái ma quỷ và kẻ thù của tất cả
những ǵ là công chính, ngươi không bỏ thói bẻ cong
những đường lối ngay thẳng của Chúa
sao?11 Giờ đây, này bàn tay Chúa giáng xuống trên
ngươi: ngươi sẽ bị mù, không thấy ánh
sáng mặt trời trong một thời gian.” Lập tức,
mù loà và tối tăm ập xuống trên người phù thuỷ,
và ông ta phải lần ṃ t́m người dắt.12
Bấy giờ, thấy việc xảy ra, thống đốc
liền tin theo, v́ ông rất đỗi ngạc nhiên về
giáo huấn của Chúa.
13 Từ Pa-phô, ông
Phao-lô và các bạn đồng hành vượt biển đến
Péc-ghê miền Pam-phy-li-a. Nhưng ông Gio-an bỏ các ông mà về
Giê-ru-sa-lem.14 C̣n hai ông th́ rời Péc-ghê tiếp tục
đi An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a. Ngày sa-bát, hai ông vào hội
đường ngồi tham dự.15 Sau phần
đọc sách Luật và sách Các Ngôn Sứ, các trưởng
hội đường cho người đến nói với
hai ông: “Thưa anh em, nếu anh em muốn khuyên nhủ dân
điều ǵ, xin cứ nói.”
16 Ông Phao-lô đứng
dậy, giơ tay xin mọi người lưu ư, rồi
nói:
17 Thiên Chúa của dân Ít-ra-en đă chọn cha ông
chúng ta, đă làm cho dân này thành một dân lớn trong thời
họ cư ngụ ở đất Ai-cập, và đă
giơ cánh tay mạnh mẽ của Người mà đem họ
ra khỏi đó.18 Và trong thời gian chừng bốn
mươi năm, Người đă nuôi dưỡng họ
trong sa mạc.19 Rồi Người đă tiêu diệt
bảy dân tộc ở đất Ca-na-an và ban đất của
chúng cho họ làm gia sản:20 tất cả đă xảy
ra trong khoảng bốn trăm năm mươi năm. Sau
đó, Người ban cho họ các vị thủ lănh cho
đến thời ngôn sứ Sa-mu-en.21 Rồi họ
đ̣i có vua, Thiên Chúa ban cho họ ông Sa-un, con ông Kít thuộc
chi tộc Ben-gia-min, trị v́ bốn mươi năm.22
Sau khi truất phế vua Sa-un, Người đă cho ông
Đa-vít xuất hiện làm vua cai trị họ. Người
đă làm chứng về ông rằng: Ta đă t́m được
Đa-vít, con của Gie-sê, một người đẹp
ḷng Ta và sẽ thi hành mọi ư muốn của Ta.23
Từ ḍng dơi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đă
đưa đến cho Ít-ra-en một Đấng Cứu
Độ là Đức Giê-su.24 Để dọn
đường cho Đức Giê-su, ông Gio-an đă rao giảng
kêu gọi toàn dân Ít-ra-en chịu phép rửa tỏ ḷng sám hối.25
Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gio-an đă tuyên bố:
“Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu,
nhưng ḱa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không
đáng cởi dép cho Người.
26 “Thưa anh em, là
con cái thuộc ḍng giống Áp-ra-ham, và thưa anh em đang
hiện diện nơi đây, là những người kính sợ
Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi
tới chúng ta.27 Dân cư thành Giê-ru-sa-lem và các thủ
lănh của họ đă không nhận biết Đức
Giê-su; khi kết án Người, họ đă làm cho ứng
nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi ngày
sa-bát.28 Tuy không thấy Người có tội ǵ
đáng chết, họ vẫn đ̣i Phi-la-tô xử tử.29
Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh
Thánh chép về Người, họ đă hạ Người
từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ.30
Nhưng Thiên Chúa đă làm cho Người trỗi dậy từ
cơi chết.31 Trong nhiều ngày, Đức Giê-su
đă hiện ra với những kẻ từng theo Người
từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng
cho Người trước mặt dân.
32 “C̣n chúng tôi, chúng
tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa
với cha ông chúng ta,33 th́ Người đă thực
hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giê-su
sống lại, đúng như lời đă chép trong Thánh vịnh
2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đă sinh ra Con.
34 “Về việc
Người đă làm cho Đức Giê-su từ cơi chết
sống lại, không c̣n phải hư nát nữa, th́ Người
phán thế này: Ta sẽ ban cho các ngươi những ơn
lộc đă hứa cho Đa-vít.35 V́ vậy ở
chỗ khác, lại có lời rằng: Ngài sẽ không để
Vị Thánh của Ngài phải hư nát.36 Thế mà
vua Đa-vít, sau khi phục vụ ư định của Thiên
Chúa trong đời ông, đă an nghỉ, đă được
chôn cất bên cạnh tổ tiên và phải hư nát.37
C̣n Đấng mà Thiên Chúa đă cho trỗi dậy th́ không phải
hư nát.
38 “Vậy thưa
anh em, xin biết cho điều này: chính nhờ Đấng
ấy mà ơn tha tội được loan báo cho anh em; và
trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi
tội lỗi mà trở nên công chính nhờ tuân giữ Luật
Mô-sê,39 th́ nhờ Người, mọi kẻ tin
đều được nên công chính.
40 “Vậy hăy coi chừng
kẻo lại xảy ra điều đă nói trong sách Các
Ngôn Sứ:41 Hỡi những kẻ khinh mạn, hăy
xem, hăy kinh ngạc sững sờ và biến mất đi!
V́ chính vào thời các ngươi, Ta sắp làm một việc,
một việc mà các ngươi sẽ chẳng tin, nếu
có ai kể lại cho các ngươi.
42 Khi ông Phao-lô và
ông Ba-na-ba đi ra, người ta mời hai ông lại nói về
đề tài ấy ngày sa-bát sau.43Tan buổi họp,
có nhiều người Do-thái và nhiều người đạo
theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa,
đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ
họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.
44 Ngày sa-bát sau, gần
như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa.45
Thấy những đám đông như vậy, người
Do-thái sinh ḷng ghen tức, họ phản đối những
lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông.46 Bấy giờ
ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải
là những người đầu tiên được nghe
công bố lời Thiên Chúa, nhưng v́ anh em khước từ
lời ấy, và tự coi ḿnh không xứng đáng hưởng
sự sống đời đời, th́ đây chúng tôi quay
về phía dân ngoại.47 V́ Chúa truyền cho chúng tôi
thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn
dân, để ngươi đem ơn cứu độ
đến tận cùng cơi đất.”
48 Nghe thế, dân
ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những
người đă được Thiên Chúa định cho
hưởng sự sống đời đời, đều
tin theo.49 Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.
50 Nhưng người
Do-thái sách động nhóm phụ nữ hượng lưu
đă theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi
giục họ ngược đăi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và
trục xuất hai ông ra khỏi lănh thổ của họ.51
Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ
và đi tới I-cô-ni-ô.52 C̣n các môn đệ
được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.
14. 1 Tại I-cô-ni-ô
cũng xảy ra như vậy: hai ông vào hội đường
người Do-thái và giảng dạy, khiến rất
đông người Do-thái và Hy-lạp tin theo.
2 Nhưng những người Do-thái không tin theo th́
xúi giục những người ngoại và làm cho họ có
ác cảm với các anh em.
3 Vậy hai ông ở lại một thời gian khá
lâu, mạnh dạn v́ dựa vào Chúa, là Đấng chứng
nhận lời giảng về ân sủng của Người,
khi cho tay các ông thực hiện những dấu lạ
điềm thiêng.
4 Quần chúng trong thành chia rẽ, kẻ th́ đứng
về phía người Do-thái, kẻ th́ đứng về
phía các Tông Đồ.5 Những người ngoại
và những người Do-thái, cùng với các thủ lănh của
họ, mưu toan làm nhục và ném đá hai ông.6 Biết
thế, hai ông lánh sang các thành miền Ly-cao-ni-a là Lưt-ra,
Đéc-bê và các vùng phụ cận;7 và tại đó
các ông tiếp tục loan báo Tin Mừng.
8 Tại Lưt-ra, có
một người bại hai chân ngồi đó; anh ta bị
què từ khi lọt ḷng mẹ, chưa hề đi
được bước nào.9 Anh nghe ông Phao-lô giảng.
Ông nh́n thẳng vào anh và thấy anh có ḷng tin để
được cứu chữa,10 th́ lớn tiếng
nói: “Anh trỗi dậy đi, hai chân đứng thẳng! ”
Anh đứng phắt dậy và đi lại được.
11 Thấy việc
ông Phao-lô làm, đám đông hô lên bằng tiếng Ly-cao-ni-a:
“Thần linh mặc lốt người phàm đă xuống
với chúng ta! “12 Họ gọi ông Ba-na-ba là thần
Dớt, ông Phao-lô là thần Héc-mê, v́ ông là người phát
ngôn.13 Thầy tư tế đền thờ thần
Dớt ở ngoại thành đem ḅ và ṿng hoa đến
trước cổng thành, và cùng với đám đông, muốn
dâng lễ tế.14 Nghe biết được, hai
tông đồ Ba-na-ba và Phao-lô xé áo ḿnh ra, xông vào đám
đông mà kêu lên:15 “Hỡi các bạn, các bạn làm
ǵ thế này? Chúng tôi đây cũng chỉ là người
phàm, cùng thân phận với các bạn. Chúng tôi loan Tin Mừng
cho các bạn, là hăy bỏ những cái hăo huyền này đi,
mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng
đă tạo thành trời đất với biển
khơi cùng muôn loài trong đó.16 Trong những thế
hệ đă qua, Người để cho muôn dân đi theo
đường lối của họ.17 Tuy vậy
Người không ngừng làm chứng cho ḿnh, khi thi ân giáng
phúc, ban mưa từ trời và mùa màng sung túc cho các bạn,
và cho các bạn được no ḷng, được an
vui.”18 Nói vậy mà hai ông vẫn c̣n phải vất
vả mới can được đám đông không dâng lễ
tế cho hai ông.19 Bấy giờ có những người
Do-thái từ An-ti-ô-khi-a và I-cô-ni-ô đến, thuyết phục
được đám đông. Họ ném đá ông Phao-lô rồi
lôi ông ra ngoài thành, v́ tưởng ông đă chết.20
Nhưng khi các môn đệ xúm lại quanh ông, ông đứng
dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi Đéc-bê cùng với
ông Ba-na-ba.
21 Sau khi đă loan
Tin Mừng cho thành ấy và nhận khá nhiều người
làm môn đệ, hai ông trở lại Lưt-ra, I-cô-ni-ô và
An-ti-ô-khi-a.22 Hai ông củng cố tinh thần các môn
đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức
tin. Hai ông nói: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới
được vào Nước Thiên Chúa.”23 Trong mỗi
Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ
mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những
người đó cho Chúa, Đấng họ đă tin.
24 Hai ông đi qua
miền Pi-xi-đi-a mà đến miền Pam-phy-li-a,25
rao giảng lời Chúa tại Péc-ghê, rồi xuống Át-ta-li-a.26
Từ đó hai ông vượt biển về An-ti-ô-khi-a, là
nơi trước đây các ông đă được giao
phó cho ân sủng của Thiên Chúa để làm công việc vừa
mới hoàn thành.
27 Khi tới
nơi, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất
cả những ǵ Thiên Chúa đă cùng làm với hai ông, và việc
Người đă mở cửa cho các dân ngoại đón nhận
đức tin.28 Rồi hai ông ở lại một
thời gian khá lâu với các môn đệ.
15. 1 Có những
người từ miền Giu-đê đến dạy anh
em rằng: “Nếu anh em không chịu phép cắt b́ theo tục
lệ Mô-sê, th́ anh em không thể được cứu
độ.”2 Ông Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối
và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết
định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người
khác lên Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục,
để bàn về vấn đề đang tranh luận
này.
3 Các ông được
Hội Thánh tiễn đưa. Khi đi qua miền Phê-ni-xi
và miền Sa-ma-ri, các ông tường thuật việc các dân
ngoại đă trở lại với Thiên Chúa, khiến tất
cả các anh em rất đỗi vui mừng.4 Tới
Giê-ru-sa-lem, các ông được Hội Thánh, các Tông Đồ
và kỳ mục tiếp đón, và các ông kể lại tất
cả những ǵ Thiên Chúa đă cùng làm với các ông.
5 Có những
người thuộc phái Pha-ri-sêu đă trở thành tín hữu,
bấy giờ đứng ra nói rằng: “Phải làm phép cắt
b́ cho người ngoại và truyền cho họ giữ luật
Mô-sê.”6 Các Tông Đồ và các kỳ mục bèn họp
nhau để xem xét vụ này.
7 Sau khi các ông
đă tranh luận nhiều, ông Phê-rô đứng lên nói:
“Thưa anh em, anh em biết: ngay từ những ngày đầu,
Thiên Chúa đă chọn tôi giữa anh em, để các dân ngoại
được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi và
tin theo.8 Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi
tâm can đă chứng tỏ Người chấp nhận họ,
khi ban Thánh Thần cho họ cũng như đă ban cho chúng
ta.9 Người không phân biệt chút nào giữa
chúng ta với họ, v́ đă dùng đức tin để
thanh tẩy ḷng họ.10 Vậy bây giờ, sao anh em
lại thử thách Thiên Chúa, mà quàng vào cổ các môn đệ
một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đă không
có sức mang nổi?11 Vả lại, chính nhờ
ân sủng Chúa Giê-su mà chúng ta tin ḿnh được cứu
độ, cùng một cách như họ.”
12 Bấy giờ
toàn thể hội nghị im lặng. Họ nghe ông Ba-na-ba
và ông Phao-lô thuật lại các dấu lạ điềm
thiêng Thiên Chúa đă dùng hai ông mà làm giữa các dân ngoại.
13 Khi hai ông dứt
lời, ông Gia-cô-bê lên tiếng nói: “Thưa anh em, xin nghe tôi
đây:14 Ông Si-môn đă thuật lại cho chúng ta rằng:
ngay từ đầu, Thiên Chúa đă đoái thương chọn
trong các dân ngoại một dân mang danh Người.15
Những lời các ngôn sứ cũng phù hợp với
điều ấy, như đă chép:16 Sau đó, Ta sẽ
trở lại, và sẽ xây dựng lại lều Đa-vít
đă sụp đổ; đống hoang tàn đó, Ta sẽ
xây dựng lại, và Ta sẽ dựng lại lều ấy.17
Như vậy các người c̣n lại và tất cả các
dân ngoại được mang danh Ta sẽ t́m kiếm Chúa.
Chúa phán như vậy,18 Người là Đấng
cho biết những điều ấy tự ngàn xưa.
19 “V́ vậy, phần
tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những
người gốc dân ngoại trở lại với Thiên
Chúa,20 nhưng chỉ viết thư bảo họ
kiêng những thức ăn ô uế v́ đă cúng cho ngẫu
tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không
cắt tiết và kiêng ăn tiết.21 Thật vậy,
từ những thế hệ xa xưa, trong mỗi thành ông
Mô-sê đều có những người rao giảng: họ
đọc lời của ông trong các hội đường
mỗi ngày sa-bát.”
22 Bấy giờ
các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể
Hội Thánh, quyết định chọn mấy người
trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô
và ông Ba-na-ba. Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và
ông Xi-la, những người có uy tín trong Hội Thánh.23
Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau:
24 Chúng tôi nghe biết
có một số người trong chúng tôi, không được
chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều
gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang.25 V́ thế,
chúng tôi đă đồng tâm nhất trí quyết định
chọn một số đại biểu, và phái họ
đến với anh em, cùng với những người
anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô,26
những người đă cống hiến cuộc đời
v́ danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.27 Vậy
chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến tŕnh bày trực
tiếp những điều viết sau đây:28
Thánh Thần và chúng tôi đă quyết định không đặt
lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều
cần thiết này:29 là kiêng ăn đồ đă
cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt
loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận
tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em
an mạnh.”
30 Sau khi được
mọi người tiễn chân, các đại biểu xuống
An-ti-ô-khi-a, triệu tập cộng đoàn lại và trao bức
thư.31 Đọc thư xong, họ vui mừng v́
lời khích lệ đó.32 Ông Giu-đa và ông Xi-la, v́
cũng là ngôn sứ, đă nói chuyện lâu với các anh em
mà khuyên nhủ và làm cho họ được vững mạnh.33
Hai ông ở lại một thời gian, rồi các anh em lại
tiễn chân hai ông trở về b́nh an với những
người đă phái hai ông đi.34 Nhưng ông
Xi-la quyết định ở lại, chỉ một ḿnh
ông Giu-đa đi.35 C̣n ông Phao-lô và ông Ba-na-ba th́ ở
lại An-ti-ô-khi-a. Cùng với nhiều người khác, hai
ông giảng dạy và loan báo Tin Mừng lời Chúa.
36 Ít ngày sau, ông
Phao-lô nói với ông Ba-na-ba: “Ta hăy trở lại thăm các
anh em trong mỗi thành ta đă loan báo lời Chúa, xem họ
ra sao.”37 Ông Ba-na-ba muốn đem theo cả ông Gio-an
cũng gọi là Mác-cô.38 Nhưng ông Phao-lô th́
nghĩ là một người đă từng bỏ hai ông từ
khi ở miền Pam-phy-li-a và đă không cộng tác với
hai ông, th́ không nên đem theo.39 Hai bên nổi nóng
đến mức phải chia tay nhau. Ông Ba-na-ba đem ông
Mác-cô theo, vượt biển đi đảo Sưp.40
C̣n ông Phao-lô th́ chọn ông Xi-la và lên đường, sau khi
đă được các anh em giao phó cho ân sủng Chúa.
41 Ông đi qua miền
Xy-ri và miền Ki-li-ki-a, và làm cho các Hội Thánh được
vững mạnh.
16. 1 Ông đến Đéc-bê, rồi đến
Lưt-ra. Ở đó có một môn đệ tên là Ti-mô-thê, mẹ
là người Do-thái đă tin Chúa, c̣n cha là người Hy-lạp.2
Ông được các anh em ở Lưt-ra và I-cô-ni-ô chứng nhận
là tốt.3 Ông Phao-lô muốn ông ấy cùng lên
đường với ḿnh, nên đă đem ông đi làm phép
cắt b́, v́ nể các người Do-thái ở những
nơi ấy; thật vậy, ai cũng biết cha ông là
người Hy-lạp.
4 Khi đi qua các thành, các ông truyền lại cho các
anh em những chỉ thị đă được các Tông
Đồ và kỳ mục ở Giê-ru-sa-lem ban bố, để
họ tuân giữ.
5 Vậy các Hội Thánh được vững mạnh
trong đức tin và mỗi ngày thêm đông số.
6 Các ông đi qua
miền Phy-ghi-a và Ga-lát, v́ Thánh Thần ngăn cản không
cho các ông rao giảng lời Chúa ở A-xi-a.7 Khi tới
sát ranh giới My-xi-a, các ông thử vào miền Bi-thy-ni-a, nhưng
Thần Khí Đức Giê-su không cho phép.8 Các ông bèn
đi qua miền My-xi-a mà xuống Trô-a.
9 Ban đêm, ông
Phao-lô thấy một thị kiến: một người
miền Ma-kê-đô-ni-a đứng đó, mời ông rằng:
“Xin ông sang Ma-kê-đô-ni-a giúp chúng tôi! “10 Sau khi ông thấy
thị kiến đó, lập tức chúng tôi t́m cách đi
Ma-kê-đô-ni-a, v́ hiểu ra rằng Thiên Chúa kêu gọi chúng
tôi loan báo Tin Mừng cho họ.
11 Xuống tàu ở
Trô-a, chúng tôi đi thẳng đến đảo Xa-mốt-ra-kê,
rồi hôm sau đến Nê-a-pô-li.12 Từ đó
chúng tôi đi Phi-líp-phê là thị trấn quan trọng nhất
trong hạt ấy của tỉnh Ma-kê-đô-ni-a, và là thuộc
địa Rô-ma. Chúng tôi ở lại thành đó mấy ngày.13
Ngày sa-bát, chúng tôi ra khỏi cổng thành, men theo bờ sông,
đến một chỗ chúng tôi đoán chừng có nơi
cầu nguyện. Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện với
những phụ nữ đang họp nhau tại đó.14
Có một bà tên là Ly-đi-a, quê ở Thy-a-ti-ra, chuyên buôn bán vải
điều. Bà là người tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và
Chúa mở ḷng cho bà để bà chú ư đến những lời
ông Phao-lô nói.15 Sau khi bà và cả nhà đă chịu
phép rửa, bà mời chúng tôi: “Các ông đă coi tôi là một
tín hữu Chúa, th́ xin các ông đến ở nhà tôi.” Và bà ép
chúng tôi phải nhận lời.
16 Một hôm,
đang khi chúng tôi đi tới nơi cầu nguyện, một
đầy tớ gái đón gặp chúng tôi; cô ta bị quỷ
thần ốp, và thuật bói toán của cô làm lợi nhiều
cho các chủ của cô.17 Cô lẽo đẽo theo
ông Phao-lô và chúng tôi mà kêu: “Các ông này là tôi tớ Thiên Chúa Tối
Cao; họ loan báo cho các người con đường cứu
độ.”18 Cô cứ làm thế trong nhiều ngày.
Bực ḿnh, ông Phao-lô quay lại bảo quỷ: “Nhân danh
Đức Giê-su Ki-tô, ta truyền cho ngươi phải xuất
khỏi người này! ” Ngay lúc ấy, quỷ thần liền
xuất.
19 Các chủ của
cô thấy hy vọng kiếm lợi đă tiêu tan, liền
túm lấy ông Phao-lô và ông Xi-la mà lôi đến quảng
trường, đưa ra trước nhà chức trách.20
Họ điệu hai ông đến các quan toà và nói: “Những
người này gây xáo trộn trong thành phố chúng ta; họ
là người Do-thái,21 và họ truyền bá những
tập tục mà người Rô-ma chúng ta không được
phép chấp nhận và thi hành.”22 Đám đông nổi
lên chống hai ông. Các quan toà, sau khi đă cho lột áo hai
ông, th́ ra lệnh đánh đ̣n.23 Khi đă đánh
nhừ tử, họ tống hai ông vào ngục, và truyền
cho viên cai ngục phải canh giữ cẩn thận.24
Được lệnh đó, người này tống hai
ông vào pḥng giam sâu nhất và cùm chân lại.
25 Vào quăng nửa
đêm, ông Phao-lô và ông Xi-la hát thánh ca cầu nguyện với
Thiên Chúa; các người tù nghe hai ông hát.26 Bỗng
nhiên có động đất mạnh, khiến nền móng
nhà tù phải rung chuyển. Ngay lúc đó, tất cả các cửa
mở toang và xiềng xích của mọi người buột
tung ra.27 Viên cai ngục choàng dậy và thấy các cửa
ngục mở toang, liền rút gươm định tự
tử, v́ tưởng rằng các người tù đă trốn
đi.28 Nhưng ông Phao-lô lớn tiếng bảo:
“Ông chớ hại ḿnh làm chi: chúng tôi c̣n cả đây mà!”
29 Viên cai ngục bảo
lấy đèn, nhảy bổ vào, run rẩy sấp ḿnh
dưới chân ông Phao-lô và ông Xi-la,30 rồi
đưa hai ông ra ngoài và nói: “Thưa các ngài, tôi phải làm
ǵ để được cứu độ? “31
Hai ông đáp: “Hăy tin vào Chúa Giê-su, th́ ông và cả nhà sẽ
được cứu độ.”32 Hai ông liền
giảng lời Chúa cho viên cai ngục cùng mọi người
trong nhà ông ấy.33 Ngay lúc đó, giữa ban đêm,
viên cai ngục đem hai ông đi, rửa các vết
thương, và lập tức ông ấy được chịu
phép rửa cùng với tất cả người nhà.34
Rồi ông ấy đưa hai ông lên nhà, dọn bàn ăn.
Ông và cả nhà vui mừng v́ đă tin Thiên Chúa.
35 Sáng ngày ra, các
quan toà sai vệ binh đến nói với viên cai ngục:
“Thả những người ấy ra! “36 Viên cai ngục
báo tin ấy cho ông Phao-lô: “Các quan toà sai người đến
bảo thả các ngài. Vậy bây giờ xin các ngài ra và
đi b́nh an.”37 Nhưng ông Phao-lô nói với họ:
“Chúng tôi là những công dân Rô-ma, không có án ǵ cả, mà họ
đă đánh đ̣n chúng tôi trước công chúng, rồi tống
ngục. Bây giờ họ lại lén lút tống chúng tôi ra!
Không được! Họ phải đích thân đến
đưa chúng tôi ra!”
38 Các vệ binh
tŕnh lại những lời ấy cho các quan toà. Những
ông này sợ hăi khi nghe biết hai ông là công dân Rô-ma.39
Họ bèn đến xin lỗi, rồi đưa hai ông ra
và xin hai ông rời khỏi thành phố.40 Ra khỏi
ngục, hai ông đến nhà bà Ly-đi-a; sau khi gặp các
anh em và khuyên nhủ họ, hai ông ra đi.
17. 1 Hai ông đi ngang
qua Am-phi-pô-li và A-pô-lô-ni-a, đến Thê-xa-lô-ni-ca, là nơi
có một hội đường của người
Do-thái.2 Theo thói quen, ông Phao-lô đến với họ,
và trong ba ngày sa-bát liền, ông thảo luận với họ;
dựa vào Kinh Thánh, ông3 giải thích và xác định
rằng Đấng Ki-tô phải chịu khổ h́nh và sống
lại từ cơi chết; ông nói: “Đấng Ki-tô ấy,
chính là Đức Giê-su mà tôi rao giảng cho anh em.”4
Trong nhóm đó, có mấy người đă chịu tin theo
và nhập đoàn với ông Phao-lô và ông Xi-la; một số
rất đông những người Hy-lạp tôn thờ
Thiên Chúa và không ít phụ nữ quư phái cũng làm như vậy.
5 Nhưng người
Do-thái sinh ghen tức, họ quy tụ một số du
đăng đầu đường xó chợ, họp thành
đám đông, gây náo động trong thành. Họ kéo đến
nhà ông Gia-xon, t́m ông Phao-lô và ông Xi-la để đưa hai
ông ra trước đại hội toàn dân.6 Không
t́m thấy hai ông, họ bèn lôi ông Gia-xon và một số anh
em ra trước nhà chức trách thành phố, mà kêu la rằng:
“Những tên gây rối trong cả thiên hạ, nay vác mặt
đến đây,7 thế mà Gia-xon lại chứa
chấp chúng! Tất cả bọn này đi ngược lại
các chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da, v́ chúng nói rằng
có một vua khác là Giê-su.”8 Nghe những lời ấy,
đám đông và các nhà chức trách thành phố xôn xao,9
họ đ̣i ông Gia-xon và những người kia phải nộp
tiền kư quỹ rồi mới thả ra.
10 Ngay đêm ấy,
các anh em tiễn ông Phao-lô và ông Xi-la đi Bê-roi-a. Đến
nơi, các ông vào hội đường người Do-thái.11
Những người Do-thái ở đây cởi mở
hơn những người ở Thê-xa-lô-ni-ca: họ
đón nhận lời Chúa với tất cả nhiệt
tâm, ngày ngày tra cứu Sách Thánh để xem có đúng như
vậy không.12 Vậy nhiều người trong nhóm
họ tin theo; về phía người Hy-lạp, cũng có
nhiều phụ nữ thượng lưu và nhiều
đàn ông cũng tin theo.
13 Nhưng khi
người Do-thái ở Thê-xa-lô-ni-ca biết là ông Phao-lô
cũng loan báo lời Thiên Chúa ở Bê-roi-a nữa, th́ họ
lại đến đấy sách động và gây xôn xao
trong dân chúng.14 Bấy giờ các anh em lập tức
tiễn ông Phao-lô ra tận bờ biển; c̣n ông Xi-la và ông
Ti-mô-thê th́ vẫn ở lại đó.15 Các người
tháp tùng đưa ông Phao-lô đến A-thê-na rồi từ
đó trở về, mang theo lệnh bảo ông Xi-la và ông
Ti-mô-thê phải đến với ông Phao-lô càng sớm càng tốt.
16 Trong khi ông Phao-lô
đợi hai ông ở A-thê-na, ông nổi giận v́ thấy
thành phố nhan nhản những tượng thần.17
Vậy ông thảo luận trong hội đường với
những người Do-thái và những người tôn thờ
Thiên Chúa, và ngoài quảng trường mỗi ngày với những
người qua lại.18 Có mấy triết gia thuộc
phái Khoái Lạc và phái Khắc Kỷ cũng trao đổi
với ông. Kẻ th́ nói: “Con vẹt đó muốn nói ǵ vậy?
” Người khác lại bảo: “H́nh như ông ta rao giảng
về những thần xa lạ”, v́ ông Phao-lô loan báo Tin Mừng
về Đức Giê-su và về sự Phục Sinh.
19 Họ mời
ông đi với họ đến Hội đồng
A-rê-ô-pa-gô và nói: “Chúng tôi có thể biết thứ đạo
lư mới ông dạy là ǵ không?20 Quả ông có đem
đến cho chúng tôi một số điều lạ tai; vậy
chúng tôi muốn biết những điều đó nghĩa
là ǵ.”21 Thật thế, mọi người A-thê-na
và kiều dân ở đó chỉ để thời giờ
bàn tán hay nghe những chuyện mới nhất.
22 Đứng giữa
Hội đồng A-rê-ô-pa-gô, ông Phao-lô nói: “Thưa quư vị
người A-thê-na, tôi thấy rằng, về mọi mặt,
quư vị là người sùng đạo hơn ai hết.23
Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nh́n lên những
nơi thờ phượng của quư vị, tôi đă thấy
có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: “Kính
thần vô danh”. Vậy Đấng quư vị không biết mà
vẫn tôn thờ, th́ tôi xin rao giảng cho quư vị.
24 “Thiên Chúa, Đấng
tạo thành vũ trụ và muôn loài trong đó, Đấng
làm Chúa Tể trời đất, không ngự trong những
đền do tay con người làm nên.25 Người
cũng không cần được bàn tay con người phục
vụ, như thể Người thiếu thốn cái ǵ, v́
Người ban cho mọi loài sự sống, hơi thở
và mọi sự.26 Từ một người duy nhất,
Thiên Chúa đă tạo thành toàn thể nhân loại, để
họ ở trên khắp mặt đất; Người
đă vạch ra những thời kỳ nhất định
và những ranh giới cho nơi ở của họ.27
Như vậy là để họ t́m kiếm Thiên Chúa; may ra
họ ḍ dẫm mà t́m thấy Người, tuy rằng thực
sự Người không ở xa mỗi người chúng ta.28
Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống,
cử động, và hiện hữu, như một số
thi sĩ của quư vị đă nói: “Chúng ta cũng thuộc
ḍng giống của Người.
29 “Vậy, v́ là
ḍng giống Thiên Chúa, chúng ta không được nghĩ rằng
thần linh giống như h́nh tượng do nghệ thuật
và tài trí con người chạm trổ trên vàng, bạc hay
đá.
30 “Vậy mà Thiên
Chúa nhắm mắt bỏ qua những thời người
ta không nhận biết Người. Bây giờ Người
truyền cho người ta rằng mọi người ở
mọi nơi phải sám hối,31 v́ Người
đă ấn định một ngày để xét xử
thiên hạ theo công lư, nhờ một người mà Người
đă chỉ định. Để bảo đảm
điều ấy với mọi người, Thiên Chúa
đă làm cho vị này sống lại từ cơi chết.”
32 Vừa nghe nói
đến người chết sống lại, kẻ th́
nhạo cười, kẻ th́ nói: “Để khi khác chúng tôi
sẽ nghe ông nói về vấn đề ấy.”33
Thế là ông Phao-lô bỏ họ mà đi.34 Nhưng
có mấy người đă theo ông và tin Chúa, trong số
đó có ông Đi-ô-ny-xi-ô, thành viên Hội đồng
A-rê-ô-pa-gô và một phụ nữ tên là Đa-ma-ri cùng những
người khác nữa.
18. 1 Sau đó, ông Phao-lô rời A-thê-na đi
Cô-rin-tô.2 Tại đây, ông gặp một người
Do-thái tên là A-qui-la, quê ở Pon-tô, vừa mới từ
I-ta-li-a đến, cùng với vợ là Pơ-rít-ki-la, v́
hoàng đế Cơ-lau-đi-ô đă ra lệnh cho mọi
người Do-thái phải rời Rô-ma. Ông Phao-lô đến
thăm hai ông bà,3 và v́ cùng nghề, nên ông ở lại
nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề dệt lều.4
Mỗi ngày sa-bát, ông thảo luận tại hội
đường, cố thuyết phục cả người
Do-thái lẫn người Hy-lạp.
5 Khi ông Xi-la và ông
Ti-mô-thê từ Ma-kê-đô-ni-a xuống, th́ ông Phao-lô chỉ lo
giảng, long trọng làm chứng cho người Do-thái biết
rằng Đức Giê-su chính là Đấng Ki-tô.6 Bởi
họ chống đối và nói lộng ngôn, nên ông giũ áo
mà bảo họ: “Máu các người cứ đổ xuống
trên đầu các người! Phần tôi, tôi vô can; từ
nay trở đi, tôi sẽ đến với người
ngoại.”7 Ông rời bỏ chỗ ấy đến
nhà một người ngoại tôn thờ Thiên Chúa, tên là
Ti-xi-ô Giút-tô, ở sát bên hội đường.8
Ông Cơ-rít-pô, trưởng hội đường, tin
Chúa, cùng với cả nhà. Nhiều người Cô-rin-tô
đă nghe ông Phao-lô giảng cũng tin theo và chịu phép rửa.9
Một đêm, Chúa bảo ông Phao-lô trong một thị kiến:
“Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh,10
v́ Thầy ở với anh; không ai tra tay hại anh
được, v́ Thầy có một dân đông đảo
trong thành này.”11 Ông Phao-lô ở lại đó một
năm rưỡi, dạy cho họ lời Thiên Chúa.
12 Thời ông
Ga-li-on làm thống đốc tỉnh A-khai-a, người
Do-thái nhất tề nổi dậy chống ông Phao-lô; họ
đưa ông ra toà13 và nói: “Tên này xúi giục người
ta tôn thờ Thiên Chúa trái với Lề Luật.”14
Ông Phao-lô toan mở miệng, th́ ông Ga-li-on đă nói với
người Do-thái: “Hỡi người Do-thái, giả
như có ǵ là trái Luật hay phạm pháp, th́ lẽ
đương nhiên là tôi sẽ chịu khó nghe các ông.15
Nhưng đây lại là những chuyện tranh luận về
giáo thuyết, danh từ, luật lệ riêng của các ông,
th́ các ông hăy tự xét lấy. Phần tôi, tôi không muốn
xét xử những điều ấy.”16 Rồi ông
đuổi họ ra khỏi toà án.17 Mọi người
liền túm lấy ông Xốt-thê-nê, trưởng hội
đường, mà đánh túi bụi ngay trước toà án.
Nhưng ông Ga-li-on chẳng bận tâm ǵ về việc này.
18 Ông Phao-lô c̣n ở
lại Cô-rin-tô khá lâu, rồi từ giă các anh em và vượt
biển sang miền Xy-ri, cùng với bà Pơ-rít-ki-la và ông
A-qui-la. Trước đó, tại Ken-khơ-rê, ông xuống
tóc, v́ có lời khấn.
19 Khi đến
Ê-phê-xô, ông Phao-lô từ biệt hai người kia. Phần
ông, ông vào hội đường và thảo luận với
người Do-thái.20 Họ xin ông ở lại lâu
hơn. Ông không chịu.21 Nhưng khi từ giă họ,
ông nói: “Để lần khác tôi sẽ trở lại với
các ông, nếu Thiên Chúa muốn.” Rồi ông xuống tàu rời
Ê-phê-xô.
22 Đến
Xê-da-rê, ông lên Giê-ru-sa-lem chào thăm Hội Thánh, rồi xuống
An-ti-ô-khi-a.23 Sau khi ở đó một thời gian,
ông ra đi, lần lượt qua miền Ga-lát và Phy-ghi-a và
làm cho tất cả các môn đệ được vững
mạnh.
24 Có một người
Do-thái tên là A-pô-lô, quê ở A-lê-xan-ri-a, đă đến
Ê-phê-xô; ông là người có tài hùng biện và thông thạo
Kinh Thánh.25 Ông đă được học Đạo
Chúa; với tâm hồn nồng nhiệt, ông thường lên
tiếng giảng dạy chính xác những điều liên
quan đến Đức Giê-su, tuy rằng ông chỉ biết
có phép rửa của ông Gio-an.26 Ông bắt đầu
mạnh dạn rao giảng trong hội đường. Sau
khi nghe ông nói, bà Pơ-rít-ki-la và ông A-qui-la mời ông về
nhà tŕnh bày Đạo của Thiên Chúa cho ông chính xác hơn.
27 Ông A-pô-lô muốn
sang miền A-khai-a th́ các anh em khuyến khích ông và viết
thư xin các môn đệ tiếp đón ông. Khi đến
nơi, nhờ ơn Chúa, ông đă giúp ích nhiều cho các tín
hữu,28 v́ ông mạnh mẽ và công khai bẻ lại
người Do-thái, dẫn Kinh Thánh mà minh chứng rằng
Đức Giê-su là Đấng Ki-tô.
19. 1 Trong khi ông A-pô-lô
ở Cô-rin-tô th́ ông Phao-lô đi qua miền thượng du
đến Ê-phê-xô. Ông Phao-lô gặp một số môn đệ2
và hỏi họ: “Khi tin theo, anh em đă nhận được
Thánh Thần chưa? ” Họ trả lời: “Ngay cả việc
có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được
nghe nói.”3 Ông hỏi: “Vậy anh em đă được
chịu phép rửa nào? ” Họ đáp: “Phép rửa của
ông Gio-an.”4 Ông Phao-lô nói: “Ông Gio-an đă làm một
phép rửa tỏ ḷng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng
đến sau ông, tức là Đức Giê-su.”5 Nghe
nói thế, họ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su.6
Và khi ông Phao-lô đặt tay trên họ, th́ Thánh Thần ngự
xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri.7
Cả nhóm có chừng mười hai người.
8 Ông Phao-lô vào hội
đường, và trong ṿng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng,
thảo luận về Nước Thiên Chúa và cố gắng
thuyết phục họ.9 Nhưng có một số
người cứng ḷng, không chịu tin, lại c̣n nói xấu
Đạo trước mặt cộng đoàn, nên ông tuyệt
giao với họ, tách các môn đệ ra; ngày ngày ông thảo
luận trong trường học của ông Ty-ran-nô.10
Cứ như thế trong ṿng hai năm, khiến mọi
người ở A-xi-a, Do-thái cũng như Hy-lạp,
đều được nghe lời Chúa.
11 Thiên Chúa dùng tay
ông Phao-lô mà làm những phép lạ phi thường,12
đến nỗi người ta lấy cả khăn cả
áo đă chạm đến da thịt ông mà đặt trên
người bệnh, và bệnh tật biến đi, tà thần
cũng phải xuất.
13 Có mấy người
Do-thái đi đây đi đó làm nghề trừ quỷ
cũng thử lấy danh Chúa Giê-su mà chữa những
người bị tà thần ám. Họ nói: “Nhân danh Đức
Giê-su mà ông Phao-lô rao giảng, ta truyền lệnh cho các ngươi!
“14 Ông Xi-kêu-a nọ, thượng tế Do-thái, có bảy
con trai thường làm như vậy.15 Nhưng tà
thần đáp: “Đức Giê-su, tao biết; ông Phao-lô, tao
cũng tường; c̣n bay, bay là ai? “16 Rồi
người bị tà thần ám xông vào họ, đè cả
bọn xuống đánh túi bụi, khiến họ phải
bỏ nhà ấy mà chạy trốn, trần truồng và
đầy thương tích.17 Mọi người ở
Ê-phê-xô, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều biết
chuyện ấy; ai cũng sợ hăi, và thiên hạ tán
dương danh Chúa Giê-su.
18 Trong số các
tín hữu, có nhiều người đến thú nhận và
kể ra những phù phép của ḿnh.19 Khá đông
người làm nghề phù thủy đem gom sách vở mà
đốt trước mặt mọi người; tổng
cộng số sách ấy trị giá tới năm
mươi ngàn đồng bạc.
20 Như vậy, nhờ uy lực của Chúa, lời
Chúa cứ lan tràn và thêm vững mạnh.
21 Sau khi những
việc ấy xảy ra, ông Phao-lô được Thánh Thần
thúc đẩy, quyết định đi ngang qua miền
Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a mà về Giê-ru-sa-lem; ông nói:
“Về đó rồi, tôi c̣n phải đi thăm Rô-ma nữa.”22
Ông sai hai người trong các phụ tá của ông là Ti-mô-thê
và Ê-rát-tô đi Ma-kê-đô-ni-a, c̣n ông th́ ở lại A-xi-a một
thời gian.
23 Vào thời kỳ
ấy, xảy ra một vụ rối loạn khá trầm
trọng liên quan đến Đạo.24 Số là
có một người thợ bạc tên là Đê-mết-ri-ô,
chuyên làm mô h́nh đền nữ thần Ác-tê-mi bằng bạc,
và nhờ đó đem lại cho các người thợ một
nguồn lợi không nhỏ.25 Ông ta tập hợp
họ và những người làm nghề tương tự,
và nói: “Thưa các bạn, các bạn thừa biết là nhờ
việc làm ăn này mà chúng ta phát tài.26 Thế mà,
như các bạn thấy và nghe biết: không những ở
Ê-phê-xô này, mà gần như trong khắp cả A-xi-a, tên
Phao-lô ấy đă thuyết phục và làm cho một đám
đông đáng kể thay ḷng đổi dạ, khi hắn
nói rằng thần linh do tay người làm ra không phải
là thần.27 Như vậy, có nguy cơ là không những
ngành nghề của chúng ta bị chê bai, mà cả đền
thờ đại nữ thần Ác-tê-mi cũng bị
người ta coi chẳng ra ǵ, và rốt cuộc vị nữ
thần mà toàn A-xi-a và cả thiên hạ tôn thờ cũng chẳng
c̣n ǵ là vĩ đại nữa.”28 Nghe nói thế, họ
đầy ḷng căm phẫn và thét lên: “Vĩ đại
thay, thần Ác-tê-mi của người Ê-phê-xô!”29 Cả
thành đầy hỗn loạn, người ta ùn ùn kéo đến
hí trường, lôi theo ông Gai-ô và ông A-rít-ta-khô là những
người Ma-kê-đô-ni-a, bạn đồng hành của
ông Phao-lô.30 Ông Phao-lô muốn ra trước đại
hội toàn dân, nhưng các môn đệ không cho.31 Có
mấy vị chức sắc tỉnh A-xi-a, là bạn của
ông Phao-lô, cũng sai người đến khuyên ông đừng
liều ḿnh đến hí trường.
32 Dân chúng ḥ la, kẻ
thế này, người thế nọ, đại hội trở
nên hỗn loạn và phần đông không biết ḿnh họp
nhau để làm ǵ.33 Trong đám đông, có những
người nói rơ sự thể cho ông A-lê-xan-đê biết,
v́ người Do-thái đă đưa ông ra. Ông A-lê-xan-đê
giơ tay làm hiệu tỏ ư muốn thanh minh với đại
hội toàn dân.34 Nhưng khi nhận ra ông là người
Do-thái, th́ tất cả mọi người đồng
thanh ḥ hét suốt gần hai tiếng đồng hồ:
“Vĩ đại thay, thần Ác-tê-mi của người
Ê-phê-xô! “35 Sau cùng, viên thư kư thành phố trấn
an đám đông, ông nói: “Thưa đồng bào Ê-phê-xô, có ai
trong loài người lại không biết rằng thành
Ê-phê-xô được coi sóc đền thần Ác-tê-mi
vĩ đại và giữ pho tượng của người
từ trời rơi xuống?36 Điều đó
hẳn không ai chối căi được, vậy đồng
bào hăy b́nh tĩnh và đừng làm ǵ hấp tấp.37
Đồng bào đă đưa những người này tới
đây: họ không phạm thánh cũng chẳng nói lộng
ngôn chống nữ thần của chúng ta.38 Vậy
nếu ông Đê-mết-ri-ô và các thợ cùng đi với
ông có điều ǵ kiện cáo ai, th́ đă có các phiên toà, các
thống đốc: họ cứ việc đưa nhau ra
toà!39 Ngoài ra, nếu đồng bào c̣n điều
ǵ khác muốn yêu cầu, th́ đại hội hợp pháp sẽ
giải quyết.40 Quả thế, điều xảy
ra hôm nay có nguy cơ làm chúng ta bị tố cáo về tội
nổi loạn, v́ không có lư do nào để chúng ta có thể
biện minh việc tụ họp này.” Nói thế rồi,
ông giải tán đại hội.
20. 1 Sau khi cuộc náo động chấm dứt,
ông Phao-lô mời các môn đệ tới, khuyên nhủ họ,
rồi chào từ biệt và lên đường đi
Ma-kê-đô-ni-a.2 Ông đi qua miền đó, nói nhiều
lời khuyên nhủ các anh em, rồi tới Hy-lạp3
và ở lại đó ba tháng. V́ người Do-thái âm mưu
hại ông, nên khi sắp xuống tàu sang miền Xy-ri, ông quyết
định qua ngă Ma-kê-đô-ni-a mà về.4 Cùng
đi với ông, có ông Xô-pát-rô, con ông Py-rô, người
Bê-roi-a, hai ông A-rít-ta-khô và Xê-cun-đô, người
Thê-xa-lô-ni-ca, ông Gai-ô, người Đéc-bê, ông Ti-mô-thê, hai
ông Ty-khi-cô và Trô-phi-mô, người A-xi-a.5 Các ông này
đă đi trước chúng tôi và đợi chúng tôi ở
Trô-a.6 Phần chúng tôi, sau tuần lễ Bánh Không
Men, chúng tôi xuống tàu rời Phi-líp-phê, và năm ngày sau gặp
các ông ấy ở Trô-a và ở lại đó bảy ngày.
7 Ngày thứ nhất
trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông
Phao-lô thảo luận với các anh em, và v́ hôm sau ông ra
đi, nên ông đă kéo dài cuộc nói chuyện đến măi
nửa đêm.8 Có khá nhiều đèn ở lầu
trên, nơi chúng tôi họp nhau.9 Một thiếu niên
kia, tên là Êu-ty-khô, ngồi ở cửa sổ, đă thiếp
đi và ngủ say trong khi ông Phao-lô vẫn cứ giảng.
V́ ngủ say, nên nó ngă từ tầng thứ ba xuống. Vực
lên, th́ nó đă chết.10 Ông Phao-lô xuống, cúi ḿnh
trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, v́ nó sống
mà! “11 Rồi ông lên, bẻ bánh và ăn. Ông c̣n nói
chuyện khá lâu, măi đến tảng sáng mới ra đi.12
Người ta đưa cậu bé đang sống về,
và ai nấy được an ủi không ít.
13 Chúng tôi xuống
tàu trước đi Át-xô, là nơi chúng tôi sẽ đón ông
Phao-lô; ông đă sắp đặt như thế, v́ ông tính
đi đường bộ.14 Khi ông gặp lại
chúng tôi ở Át-xô, chúng tôi đón ông xuống tàu rồi
đi tới Mi-ty-len.15 Từ đó chúng tôi vượt
biển và hôm sau tới ngang đảo Khi-ô. Hôm sau nữa,
chúng tôi cặp bến ở đảo Xa-mốt, rồi
ngày kế đó đến Mi-lê-tô,16 v́ ông Phao-lô
đă quyết định không ghé Ê-phê-xô, để khỏi
mất thời giờ ở A-xi-a. Ông vội vă như thế
để, nếu có thể, th́ có mặt ở Giê-ru-sa-lem
ngày lễ Ngũ Tuần.
Từ giă các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô
17 Từ Mi-lê-tô,
ông sai người đi mời các kỳ mục trong Hội
Thánh Ê-phê-xô.18 Khi họ đến gặp ông, ông nói
với họ:
19 Khi phục vụ
Chúa, tôi đă hết ḷng khiêm tốn, đă nhiều lần
phải rơi lệ, đă gặp bao thử thách do những
âm mưu của người Do-thái.20 Anh em biết
tôi đă không bỏ qua một điều ǵ có ích cho anh em;
trái lại tôi đă giảng cho anh em và dạy anh em ở
nơi công cộng cũng như tại chốn tư gia.21
Tôi đă khuyến cáo cả người Do-thái lẫn
người Hy-lạp phải trở về với Thiên
Chúa, và tin vào Đức Giê-su, Chúa chúng ta.
22 “Giờ đây,
bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không
biết những ǵ sẽ xảy ra cho tôi ở đó,23
trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, th́ Thánh Thần
cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân
đang chờ đợi tôi.24 Nhưng mạng sống
tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá ǵ, miễn sao tôi chạy
hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi
đă nhận từ Chúa Giê-su, là long trọng làm chứng
cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.
25 “Giờ đây
tôi biết rằng: tất cả anh em, những người
tôi đă đến thăm để rao giảng Nước
Thiên Chúa, anh em sẽ không c̣n thấy mặt tôi nữa.26
V́ vậy, hôm nay tôi xin tuyên bố với anh em rằng: nếu
có ai trong anh em phải hư mất, th́ tôi vô can.27
Thật tôi đă không bỏ qua điều ǵ, trái lại
đă rao giảng cho anh em tất cả ư định của
Thiên Chúa.
28 “Anh em hăy ân cần
lo cho chính ḿnh và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đă
đặt anh em làm người coi sóc, hăy chăn dắt Hội
Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đă mua bằng
máu của chính ḿnh.
29 “Phần tôi, tôi
biết rằng khi tôi đi rồi, th́ sẽ có những
sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đàn
chiên.30 Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất
hiện những người giảng dạy những
điều sai lạc, ḥng lôi cuốn các môn đệ theo
chúng.31 V́ vậy anh em phải canh thức, và nhớ
rằng, suốt ba năm, ngày đêm tôi đă không ngừng
khuyên bảo mỗi người trong anh em, lắm khi phải
rơi lệ.
32 “Giờ đây,
tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của
Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em
được hưởng phần gia tài cùng với tất
cả những người đă được thánh hiến.
33 “Vàng bạc hay
quần áo của bất cứ ai, tôi đă chẳng ham.34
Chính anh em biết rơ: những ǵ cần thiết cho tôi và cho
những người sống với tôi, đôi tay này đă
tự cung cấp.35 Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng
phải giúp đỡ những người đau yếu bằng
cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ
lại lời Chúa Giê-su đă dạy: cho th́ có phúc hơn là
nhận.”
36 Nói thế rồi,
ông Phao-lô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống
cầu nguyện.37 Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ
ông mà hôn.38 Họ đau đớn nhất v́ lời
ông vừa nói là họ sẽ không c̣n thấy mặt ông nữa.
Rồi họ tiễn ông xuống tàu.
21. 1 Đến khi dứt
ra được mà xuống tàu, chúng tôi đi thẳng
đến đảo Cô, ngày hôm sau đến đảo
Rô-đô, rồi từ đó đến Pa-ta-ra.2 Gặp
chuyến đi Phê-ni-xi, chúng tôi xuống tàu và ra khơi.3
Khi trông thấy đảo Sưp, chúng tôi đi ṿng phía nam mà
hướng về Xy-ri, và cập bến tại Tia, v́ tàu
phải đổ hàng ở đó.4 T́m gặp
được các môn đệ, chúng tôi ở lại đó
bảy ngày. Được Thần Khí soi sáng, họ nói với
ông Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem.5 Nhưng khi hết
thời gian ở đó, chúng tôi ra đi và lên đường,
có tất cả các môn đệ cùng với vợ con họ
tiễn chân đến tận ngoại thành. Chúng tôi quỳ
xuống trên băi biển mà cầu nguyện.6 Sau khi
từ biệt nhau, chúng tôi xuống tàu, c̣n họ th́ trở
về nhà.
7 Phần chúng tôi,
để kết thúc chuyến vượt biển này, chúng
tôi đi từ Tia đến Pơ-tô-lê-mai; chúng tôi chào
thăm các anh em ở đó và ở lại với họ một
ngày.8 Hôm sau chúng tôi lên đường và đến
Xê-da-rê. Chúng tôi vào nhà ông Phi-líp-phê, người loan báo Tin Mừng,
thuộc nhóm Bảy người, và ở lại với
ông.9 Ông này có bốn người con gái đồng
trinh được ơn nói tiên tri.10 Đang khi
chúng tôi ở lại đó nhiều ngày, có một ngôn sứ
tên là A-ga-bô từ miền Giu-đê xuống.11 Ông
đến thăm chúng tôi và lấy dây lưng của ông
Phao-lô tự trói chân tay lại và nói: “Đây là điều
Thánh Thần phán: người có dây lưng này sẽ bị
người Do-thái trói lại như thế ở
Giê-ru-sa-lem mà nộp vào tay người ngoại.”12
Nghe vậy, chúng tôi và các người địa
phương nài xin ông Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem.13
Bấy giờ ông Phao-lô trả lời: “Có ǵ mà anh em phải
khóc và làm tan nát trái tim tôi? Phần tôi, tôi sẵn sàng không những
để cho người ta trói, mà c̣n chịu chết tại
Giê-ru-sa-lem v́ danh Chúa Giê-su.”14 Không thể thuyết
phục được ông, chúng tôi đành thôi và nói: “Xin cho
ư Chúa được thể hiện!”
15 Sau mấy ngày
đó, khi đă chuẩn bị xong, chúng tôi lên Giê-ru-sa-lem.16
Có những môn đệ từ Xê-da-rê cùng đi với chúng
tôi; họ dẫn chúng tôi đến trọ nhà ông
Mơ-na-xon người Sưp, một môn đệ kỳ cựu.
17 Khi chúng tôi đến
Giê-ru-sa-lem, các anh em niềm nở đón tiếp chúng tôi.18
Hôm sau, ông Phao-lô cùng đi với chúng tôi đến nhà ông
Gia-cô-bê, ở đó có đông đủ các kỳ mục
đang họp.19 Sau khi chào hỏi, ông Phao-lô kể
lại từng chi tiết những ǵ Thiên Chúa đă dùng việc
phục vụ của ông mà làm nơi các dân ngoại.20
Nghe nói thế, họ tôn vinh Thiên Chúa, rồi nói với ông
Phao-lô: “Thưa anh, anh thấy có hàng vạn người
Do-thái đă tin theo, và tất cả đều nhiệt
thành đối với Luật Mô-sê.21 Thế mà họ
đă nghe nói về anh rằng: anh dạy tất cả những
người Do-thái sống giữa các dân ngoại phải bỏ
ông Mô-sê, anh bảo họ đừng làm phép cắt b́ cho con
cái, và đừng giữ các tục lệ nữa.22
Vậy phải làm ǵ? Thế nào người ta cũng sẽ
nghe biết là anh đă tới.23 Vậy xin anh làm
như chúng tôi nói với anh đây: chúng tôi có bốn người
đang phải giữ lời khấn;24 anh hăy
đem họ theo mà cùng làm nghi lễ tẩy uế với họ,
và đài thọ chi phí cho họ để họ có thể
xuống tóc. Như vậy ai nấy sẽ biết rằng
những điều họ đă nghe nói về anh chỉ là
chuyện không đâu; trái lại, chính anh cũng ăn ở
như người tuân giữ Lề Luật.25 C̣n
về những người ngoại đă tin theo, th́ chúng
tôi đă viết thư thông báo những quyết định
của chúng tôi, là họ phải kiêng: ăn đồ cúng
cho ngẫu tượng, ăn tiết, ăn thịt loài vật
không cắt tiết, và tránh gian dâm.”
26 Bấy giờ
ông Phao-lô đem bốn người kia theo, và ngày hôm sau ông
cùng làm nghi lễ tẩy uế với họ. Rồi ông vào
Đền Thờ và loan báo ngày kết thúc thời gian tẩy
uế, là ngày phải dâng lễ vật cầu cho mỗi
người trong nhóm họ.
27 Khi sắp hết
thời gian bảy ngày, những người Do-thái từ
A-xi-a đến thấy ông trong Đền Thờ th́ sách
động toàn thể đám đông và tra tay bắt ông.28
Họ tri hô: “Hỡi đồng bào Ít-ra-en, giúp một tay
nào! Nó kia ḱa, tên vẫn đi mọi nơi dạy cho mọi
người những điều phản dân, phạm đến
Lề Luật và Nơi Thánh này! Nó c̣n đem cả mấy
người Hy-lạp vào Đền Thờ mà làm cho Nơi
Thánh này ra ô uế.”29 Họ nói thế là v́ trước
đó họ đă thấy ông Trô-phi-mô, người Ê-phê-xô,
cùng đi với ông Phao-lô trong thành, và họ nghĩ ông
Phao-lô đă đưa ông ấy vào Đền Thờ.
30 Cả thành phố
sôi động và dân đổ xô đến. Họ túm lấy
ông Phao-lô, lôi ra khỏi Đền Thờ; lập tức
người ta đóng các cửa Đền Thờ lại.31
Họ c̣n đang t́m cách giết ông, th́ có tin báo lên cho vị
chỉ huy cơ đội: “Cả Giê-ru-sa-lem náo động!
“32 Lập tức, ông ta huy động một số
binh sĩ và đại đội trưởng, và xông vào
đám đông. Vừa thấy vị chỉ huy và binh
sĩ, th́ họ thôi không đánh ông Phao-lô nữa.33
Bấy giờ vị chỉ huy lại gần, bắt ông
và ra lệnh lấy hai cái xiềng c̣ng ông lại, rồi hỏi
cho biết ông là ai và đă làm ǵ.34 Đám đông la
hét, kẻ thế này, người thế nọ. V́ quá ồn
ào, vị chỉ huy không thể biết được
điều ǵ chắc chắn, nên mới ra lệnh đem
ông Phao-lô về đồn.35 Khi đến bậc
thềm, binh sĩ phải khiêng ông đi, v́ đám đông
quá hung bạo.36 Dân cứ theo sau cả đám mà ḥ
la: “Giết nó đi!”
37 Khi sắp bị
đem vào đồn, ông Phao-lô nói với vị chỉ huy:
“Tôi có được phép nói với ông một lời
chăng? ” Ông này đáp: “Ông biết tiếng Hy-lạp à?38
Vậy ra ông không phải là tên Ai-cập, trước
đây ít lâu, đă xúi bốn ngàn tên khủng bố nổi
loạn và dẫn chúng vào sa mạc hay sao?”39 Ông
Phao-lô nói: “Tôi đây là người Do-thái, quê ở Tác-xô miền
Ki-li-ki-a, công dân một thành không phải là không có tiếng
tăm. Xin ông cho phép tôi ngỏ lời với dân.”40
Được vị chỉ huy cho phép, ông Phao-lô đứng
trên bậc thềm giơ tay làm hiệu cho dân. Mọi
người im phăng phắc; ông Phao-lô nói với họ bằng
tiếng Híp-ri:
22. 1 “Thưa quư vị là những bậc cha
anh, xin nghe những lời biện bạch tôi nói với quư
vị bây giờ đây.”2 Khi nghe thấy ông nói với
họ bằng tiếng Híp-ri, họ càng yên lặng hơn.
Ông nói tiếp:3 “Tôi là người Do-thái, sinh ở
Tác-xô miền Ki-li-ki-a, nhưng tôi đă được nuôi
dưỡng tại thành này; dưới chân ông Ga-ma-li-ên, tôi
đă được giáo dục để giữ Luật
cha ông một cách nghiêm ngặt. Tôi cũng đă nhiệt
thành phục vụ Thiên Chúa như tất cả các ông hiện
nay.4 Tôi đă bắt bớ Đạo này, không ngần
ngại giết kẻ theo Đạo, đă đóng xiềng
và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà,5
như cả vị thượng tế lẫn toàn thể
hội đồng kỳ mục có thể làm chứng cho
tôi. Tôi c̣n được các vị ấy cho thư giới
thiệu với anh em ở Đa-mát, và tôi đi để
bắt trói những người ở đó, giải về
Giê-ru-sa-lem trừng trị.
6 “Đang khi tôi
đi đường và đến gần Đa-mát, th́ vào
khoảng trưa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng chói
lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy
tôi.7 Tôi ngă xuống đất và nghe có tiếng nói
với tôi: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ
Ta?8 Tôi đáp: “Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói
với tôi: “Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi đang bắt bớ.9
Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh
sáng, nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang
nói với tôi.10 Tôi nói: “Lạy Chúa, con phải làm
ǵ? Chúa bảo tôi: “Hăy đứng dậy, đi vào
Đa-mát, ở đó người ta sẽ nói cho anh biết
tất cả những ǵ Thiên Chúa đă chỉ định
cho anh phải làm.11 V́ ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không
c̣n trông thấy nữa, nên tôi đă được các bạn
đồng hành cầm tay dắt vào Đa-mát.
12 “Ở đó, có
ông Kha-na-ni-a, một người sùng đạo, sống
theo Lề Luật và được mọi người
Do-thái ở Đa-mát chứng nhận là tốt.13
Ông đến, đứng bên tôi và nói: “Anh Sa-un, anh thấy
lại đi! Ngay lúc đó, tôi thấy lại được
và nh́n ông.14 Ông nói: “Thiên Chúa của cha ông chúng ta
đă chọn anh để anh được biết ư muốn
của Người, được thấy Đấng
Công Chính và nghe tiếng từ miệng Đấng ấy
phán ra.15 Quả vậy, anh sẽ làm chứng nhân
cho Đấng ấy trước mặt mọi người
về các điều anh đă thấy và đă nghe.16
Vậy bây giờ anh c̣n chần chừ ǵ nữa? Anh hăy
đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy ḿnh cho sạch
tội lỗi, miệng kêu cầu danh Người.
17 “Khi trở về
Giê-ru-sa-lem, đang lúc tôi cầu nguyện trong Đền Thờ,
th́ tôi xuất thần18 và thấy Chúa bảo tôi:
“Mau lên, hăy rời khỏi Giê-ru-sa-lem gấp, v́ chúng sẽ
không nhận lời anh làm chứng về Thầy đâu.19
Tôi thưa: “Lạy Chúa, chính họ biết rơ con đây
đă đến từng hội đường bắt
giam và đánh đ̣n những kẻ tin Chúa.20 Khi
người ta đổ máu ông Tê-pha-nô, chứng nhân của
Chúa, th́ chính con cũng có mặt, con tán thành và giữ áo cho
những kẻ giết ông ấy.21 Chúa bảo tôi:
“Hăy đi, v́ Thầy sẽ sai anh đến với các dân
ngoại ở phương xa.
22 Đám đông lắng
nghe ông Phao-lô nói tới đó th́ hét lên: “Hăy bứng khỏi
mặt đất loại người như thế! Nó
không đáng sống! “23 Họ ḥ la, phất áo và
tung bụi lên trời.24 Vị chỉ huy cơ
đội ra lệnh đem ông Phao-lô vào đồn và truyền
đánh đ̣n tra tấn, để biết lư do tại sao
người ta ḥ hét phản đối ông ấy như vậy.25
Họ vừa nọc ông Phao-lô ra để đánh đ̣n,
th́ ông nói với viên đại đội trưởng
đứng gần đó: “Một công dân Rô-ma chưa
được xét xử, các ông có được phép
đánh đ̣n không? “26 Nghe vậy, viên đại
đội trưởng đi báo cáo cho vị chỉ huy rằng:
“Ông định làm ǵ bây giờ? Đương sự là
công dân Rô-ma! “27 Vị chỉ huy liền đến
gặp ông Phao-lô và hỏi: “Ông nói cho tôi biết: ông là công
dân Rô-ma sao? ” Ông Phao-lô trả lời: “Phải.”28 Vị
chỉ huy nói tiếp: “Tôi đây, tôi phải tốn bao nhiêu
tiền của mới mua được quyền công dân ấy.”
Ông Phao-lô đáp: “C̣n tôi, sinh ra đă có quyền ấy rồi.”29
Lập tức những người sắp tra tấn ông
rút lui, c̣n vị chỉ huy th́ phát sợ, v́ biết rằng
ông Phao-lô là công dân Rô-ma mà ḿnh lại đă c̣ng ông ấy.
30 Hôm sau, v́ muốn
biết chắc chắn người Do-thái tố cáo ông
Phao-lô về điều ǵ, vị chỉ huy tháo xiềng
cho ông và ra lệnh cho các thượng tế và toàn thể
Thượng Hội Đồng họp lại, rồi ông
đưa ông Phao-lô từ đồn xuống, để ra
trước mặt họ.
23. 1 Ông Phao-lô nh́n thẳng
vào Thượng Hội Đồng rồi nói: “Thưa anh
em, cho đến ngày hôm nay, tôi đă ăn ở trước
mặt Thiên Chúa với một lương tâm hoàn toàn ngay thẳng.”2
Nhưng thượng tế Kha-na-ni-a truyền cho những
người phụ tá đánh vào miệng ông Phao-lô.3
Bấy giờ ông Phao-lô nói với ông ấy: “Bức tường
tô vôi kia, Thiên Chúa sẽ đánh ông! Ông ngồi xử tôi chiếu
theo Lề Luật, mà ông lại ra lệnh đánh tôi trái với
Lề Luật! “4 Những người phụ tá
nói: “Vị thượng tế của Thiên Chúa mà mi dám nguyền
rủa sao? “5 Ông Phao-lô trả lời: “Thưa anh
em, tôi không biết đó là thượng tế; quả có lời
chép: Ngươi không được nguyền rủa người
đầu mục trong dân.”
6 Ông Phao-lô biết
rằng một phần Thượng Hội Đồng thuộc
phái Xa-đốc, c̣n phần kia thuộc phái Pha-ri-sêu, nên ông
nói lớn tiếng giữa hội nghị: “Thưa anh em,
tôi là người Pha-ri-sêu, thuộc ḍng dơi Pha-ri-sêu; chính v́
hy vọng rằng kẻ chết sẽ sống lại mà
tôi bị đưa ra xét xử.”7 Ông vừa nói thế,
th́ người Pha-ri-sêu và người Xa-đốc chống
đối nhau, khiến hội nghị chia rẽ.8
Thật vậy, người Xa-đốc chủ
trương rằng chẳng có sự sống lại, chẳng
có thiên sứ hay quỷ thần; c̣n người Pha-ri-sêu th́
lại tin là có.9 Người ta la lối om ṣm. Có mấy
kinh sư thuộc phái Pha-ri-sêu đứng lên phản đối
mạnh mẽ: “Chúng tôi không thấy người này có ǵ là
xấu. Biết đâu một vị thần hay một
thiên sứ đă nói với ông ấy? “10 Hai bên chống
đối gay gắt đến nỗi vị chỉ huy sợ
người ta xé xác ông Phao-lô, nên mới ra lệnh cho lính xuống
lôi ông ra khỏi đám người đó mà đưa về
đồn.
11 Đêm ấy
Chúa đến bên ông Phao-lô và nói: “Hăy vững ḷng! Con đă
long trọng làm chứng cho Thầy ở Giê-ru-sa-lem thế
nào, th́ con cũng phải làm chứng như vậy tại
Rô-ma nữa.”
12 Sáng ngày ra,
người Do-thái âm mưu với nhau. Họ thề độc
là sẽ không ăn không uống, bao lâu chưa giết
được ông Phao-lô.13 Có trên bốn mươi
người đă cùng thề với nhau như vậy.14
Họ đến gặp các thượng tế và kỳ mục
mà nói: “Chúng tôi đă thề độc là sẽ không ăn uống
ǵ, bao lâu chưa giết được tên Phao-lô.15
Vậy bây giờ xin quư vị, cùng với Thượng Hội
Đồng, đề nghị vị chỉ huy cho dẫn
nó xuống với quư vị, lấy cớ là để
điều tra về nó cho cặn kẽ hơn. Phần
chúng tôi, chúng tôi sẵn sàng giết nó trước khi nó tới.”
16 Nhưng người
con trai của bà chị ông Phao-lô nghe biết âm mưu
đó, liền đến đồn và vào báo tin cho ông
Phao-lô.17 Ông Phao-lô mời viên đại đội
trưởng đến và nói: “Xin ông dẫn cháu này đến
gặp vị chỉ huy, v́ cháu có điều phải báo cáo
cho ông ấy.”18 Vậy viên đại đội
trưởng đem cậu bé đi theo, dẫn đến
gặp vị chỉ huy mà tŕnh rằng: “Tù nhân Phao-lô đă
mời tôi đến và xin tôi dẫn cậu này đến
gặp ông; cậu ấy có điều phải nói với
ông.”19 Vị chỉ huy nắm tay cậu bé,
đưa riêng ra một nơi mà hỏi: “Em có điều
ǵ phải báo cáo cho ta biết? “20 Cậu bé trả
lời: “Người Do-thái đă đồng ư với nhau
là sẽ xin ông ngày mai cho điệu ông Phao-lô xuống
Thượng Hội Đồng, lấy cớ là để
tra hỏi cho cặn kẽ hơn.21 Vậy xin ông
đừng tin họ, v́ có trên bốn mươi người
trong bọn họ đang phục sẵn để hại
ông ấy; họ đă thề độc là sẽ không
ăn không uống, bao lâu chưa giết được ông
ấy. Hiện giờ họ sẵn sàng, chỉ c̣n chờ
ông chấp thuận.”22 Vị chỉ huy cho cậu
bé về và căn dặn: “Đừng nói với ai là em
đă tiết lộ những chuyện đó cho ta.”
23 Ông gọi hai
viên đại đội trưởng đến và bảo:
“Các anh hăy chuẩn bị hai trăm bộ binh, bảy
mươi kỵ binh và hai trăm khinh binh, để ngay giờ
thứ ba đêm nay đi Xê-da-rê.24 Cũng phải
có sẵn ngựa cho ông Phao-lô, để đưa ông ấy
an toàn đến với tổng trấn Phê-lích.”
25 Ông viết một
bức thư nội dung như sau:26
“Cơ-lau-đi-ô Ly-xi-a trân trọng chào ngài tổng trấn
Phê-lích đáng kính.27 Người này đă bị
người Do-thái bắt và sắp bị họ giết,
th́ tôi đem lính đến giải thoát, v́ được
biết rằng đương sự là công dân Rô-ma.28
V́ muốn biết rơ họ tố cáo đương sự
về tội ǵ, tôi đă đưa đương sự
ra trước Thượng Hội Đồng của họ.29
Tôi thấy rằng đương sự bị tố cáo về
những vấn đề liên quan đến Lề Luật
của họ, nhưng không có tội ǵ đáng chết hay
đáng bị tù.30 Được báo là người
ta âm mưu hại đương sự, tôi đă cho giải
đương sự lên ngài ngay lập tức, một trật
bảo nguyên cáo muốn kiện đương sự th́ cứ
lên ngài mà kiện.”
31 Tuân lệnh trên,
binh lính đă nhận ông Phao-lô, và ban đêm đưa ông
đi An-ti-pát-ri.32 Hôm sau, họ để kỵ
binh tiếp tục đi với ông, c̣n họ th́ trở về
đồn.33 Đến Xê-da-rê, kỵ binh tŕnh
thư và giao ông Phao-lô cho tổng trấn.34 Tổng
trấn đọc thư và hỏi ông là người tỉnh
nào. Biết ông là người miền Ki-li-ki-a,35 ông
nói: “Tôi sẽ xét vụ của anh, khi nào cả nguyên cáo nữa
cũng đến.” Rồi ông ra lệnh giam ông Phao-lô ở
dinh Hê-rô-đê.
24. 1 Năm ngày sau,
thượng tế Kha-na-ni-a xuống Xê-da-rê cùng với một
số kỳ mục và một trạng sư tên là Téc-tu-lô.
Họ đến kiện ông Phao-lô trước toà tổng
trấn.2 Ông Phao-lô bị gọi ra toà, và ông Téc-tu-lô
bắt đầu tố cáo như sau: “Thưa ngài Phê-lích
đáng kính, nhờ ngài chúng tôi được sống trong
cảnh thái b́nh; nhờ ngài ân cần săn sóc, dân tộc
này được hưởng nhiều cải cách.3
Ở đâu và lúc nào chúng tôi cũng đón nhận những
ân huệ ấy với tất cả ḷng biết ơn.4
Nhưng để khỏi quấy rầy ngài thêm, chúng tôi sẽ
tŕnh bày vắn tắt vụ việc như sau, xin ngài nghe với
tấm ḷng khoan hậu sẵn có.5 Số là chúng tôi
đă bắt gặp tên này, một thứ ôn dịch, chuyên
gây bạo loạn giữa mọi người Do-thái trong
thiên hạ, và là đầu sỏ phái Na-da-rét.6 Y c̣n
mưu toan xúc phạm đến Đền Thờ, và chúng
tôi đă bắt y.7 Chúng tôi muốn xử y chiếu
theo Luật của chúng tôi, nhưng viên chỉ huy Ly-xi-a
đă can thiệp, dùng bạo lực mà giật y khỏi
tay chúng tôi, và truyền cho những người tố cáo y
phải đến trước toà ngài.8 Tra hỏi
y, ngài sẽ có thể biết rơ về mọi điều
chúng tôi tố cáo y.”9 Người Do-thái tán đồng
và quả quyết là đúng như vậy.
10 Tổng trấn
ra hiệu bảo ông Phao-lô nói, ông liền đáp: “Tôi biết
rằng đă từ nhiều năm, ngài cầm cân nảy
mực cho dân tộc này, nên tôi sung sướng biện hộ
cho ḿnh.11 Chính ngài có thể biết rơ: tôi lên Giê-ru-sa-lem
hành hương đến nay chưa quá mười hai ngày.12
Trong Đền Thờ, trong các hội đường
cũng như trong thành phố, người ta đă không bắt
gặp được tôi thảo luận với ai hay sách
động đám đông.13 Họ cũng không thể
đưa ra cho ngài bằng chứng về những điều
bây giờ họ tố cáo tôi.
14 “Tuy nhiên, tôi xin
công nhận với ngài điều này: tôi phụng thờ
Thiên Chúa của cha ông chúng tôi theo Đạo mà họ gọi
là bè phái; tôi tin mọi điều chép trong sách Luật Mô-sê
và sách Các Ngôn Sứ.15 Tôi đặt nơi Thiên Chúa
niềm hy vọng này, như chính họ cũng hy vọng,
là người lành và kẻ dữ sẽ sống lại.16
V́ thế, cả tôi nữa, tôi cố gắng để
trước mặt Thiên Chúa và người ta, lương
tâm tôi không có ǵ đáng chê trách.
17 “Sau nhiều
năm, tôi về Giê-ru-sa-lem để đem tiền cứu
trợ cho dân tộc tôi và để dâng lễ phẩm lên
Thiên Chúa.18 Chính lúc đó họ bắt gặp tôi
trong Đền Thờ, sau khi tôi làm nghi lễ tẩy uế,
không có tụ tập đám đông, cũng không gây ồn ào
chi cả.19 Có mấy người Do-thái từ
A-xi-a đến. Đáng lẽ họ phải ra tŕnh diện
với ngài mà tố cáo tôi, nếu như họ có điều
ǵ chống tôi.20 Hoặc những người
đang có mặt đây cứ nói xem: khi tôi ra trước
Thượng Hội Đồng, họ đă t́m thấy
điều ǵ phạm pháp?21 Phải chăng là lời
duy nhất tôi đă hô lên khi đứng giữa họ:
chính v́ sự phục sinh của kẻ chết mà hôm nay tôi
bị các ông đưa ra xét xử?”
22 Ông Phê-lích là
người biết rất chính xác về Đạo, ông
hoăn vụ án lại và nói: “Khi nào viên chỉ huy Ly-xi-a xuống,
tôi sẽ xét vụ kiện của các người.”23
Ông truyền cho viên đại đội trưởng giam ông
Phao-lô, nhưng cho ông hưởng chế độ dễ
dăi và không ngăn cấm thân nhân nào đến giúp đỡ
ông.
24 Ít ngày sau, ông
Phê-lích cùng đến với vợ là bà Đơ-ru-xi-la,
người Do-thái. Ông cho vời ông Phao-lô đến và nghe
ông nói về ḷng tin vào Đức Ki-tô Giê-su.25 Nhưng
khi ông Phao-lô biện luận về đức công chính, sự
tiết độ và cuộc phán xét mai sau, th́ ông Phê-lích phát
sợ nên nói: “Bây giờ ông có thể lui ra. Khi nào tiện dịp,
tôi sẽ cho gọi ông đến.”26 Một trật,
ông cũng hy vọng ông Phao-lô đút lót; v́ thế ông năng
cho vời ông Phao-lô đến nói chuyện.
27 Măn hạn hai
năm, ông Phê-lích được ông Po-ki-ô Phét-tô đến
thay thế. V́ muốn được ḷng người
Do-thái, ông Phê-lích cứ để ông Phao-lô ở lại
trong tù.
25. 1 Ba ngày sau khi nhậm
chức, tổng trấn Phét-tô từ Xê-da-rê lên Giê-ru-sa-lem.2
Các thượng tế và thân hào Do-thái đến kiện
ông Phao-lô. Họ khẩn khoản3 xin tổng trấn
một ân huệ để hại ông Phao-lô, là đưa
ông về Giê-ru-sa-lem, v́ họ đang chuẩn bị một
cuộc mai phục để giết ông dọc đường.4
Nhưng ông Phét-tô đáp rằng ông Phao-lô đang bị giam
giữ ở Xê-da-rê, c̣n chính ông cũng sắp sửa về
đó ngay.5 Ông lại thêm: “Những ai trong các ông có
đủ tư cách, hăy cùng xuống đó với tôi, và nếu
đương sự có ǵ sai trái th́ cứ việc tố.”
6 Sau khi ở lại
Giê-ru-sa-lem không quá tám hay mười ngày, ông xuống Xê-da-rê.
Hôm sau ông ra ngồi toà và truyền điệu ông Phao-lô
đến.7 Ông Phao-lô vừa tới, th́ những
người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem xuống đă vây quanh
ông: họ tố cáo ông nhiều tội, mà toàn là tội nặng,
nhưng họ không thể minh chứng.8 Ông Phao-lô tự
biện hộ: “Tôi không có tội ǵ đối với Lề
Luật Do-thái, đối với Đền Thờ hay hoàng
đế Xê-da.”9 Ông Phét-tô muốn được
ḷng người Do-thái nên đề nghị với ông
Phao-lô: “Ông có muốn lên Giê-ru-sa-lem để được
xử tại đó trước mặt tôi về những
lời tố cáo này không? “10 Nhưng ông Phao-lô
đáp: “Tôi đang đứng trước toà án của
hoàng đế Xê-da, tôi phải được xử tại
đó. Tôi đă không làm ǵ hại người Do-thái, như
chính ngài thừa biết.11 Nếu quả thật
tôi có tội, nếu tôi đă làm điều ǵ đáng chết,
th́ tôi không xin tha chết. Nhưng nếu những điều
tố cáo của các người này là vô căn cứ, th́
không ai có quyền nộp tôi cho họ. Tôi kháng cáo lên hoàng
đế Xê-da! “12 Bấy giờ ông Phét-tô bàn với
hội đồng tư vấn, rồi trả lời: “Ông
đă kháng cáo lên hoàng đế Xê-da, th́ ông sẽ lên hoàng
đế Xê-da.”
13 Ít ngày sau, vua
Ác-ríp-pa và bà Béc-ni-kê đến Xê-da-rê chào mừng ông Phét-tô.14
V́ hai người ở lại đó nhiều ngày, ông Phét-tô
mới đem vụ ông Phao-lô ra tŕnh bày với nhà vua. Ông
nói: “Ở đây có một người tù ông Phê-lích để
lại.15 Khi tôi tới Giê-ru-sa-lem, các thượng
tế và các kỳ mục Do-thái đến kiện và xin tôi
kết án người ấy.16 Tôi đă trả lời
họ rằng người Rô-ma không có lệ nộp bị
cáo nào, trước khi đương sự ra đối
chất với nguyên cáo, và được cơ hội biện
hộ về lời tố cáo.17 Vậy họ cùng
đến đây với tôi, và không chút tŕ hoăn, ngày hôm sau tôi
ra ngồi toà và truyền điệu đương sự
đến.18 Đứng quanh đương sự,
các nguyên cáo đă không đưa ra một tội trạng
nào như tôi tưởng.19 Họ chỉ tranh luận
với ông ta về một số vấn đề liên quan
đến tôn giáo riêng của họ, và liên quan đến một
ông Giê-su nào đó đă chết, mà Phao-lô quả quyết là
vẫn sống.20 Phần tôi, phân vân trước cuộc
tranh luận về những chuyện ấy, tôi hỏi xem
ông ta có muốn đi Giê-ru-sa-lem để được xử
tại đó về vụ này không.21 Nhưng Phao-lô
đă kháng cáo, xin dành vụ này cho Thánh Thượng xét xử,
nên tôi đă ra lệnh giữ ông ta lại cho đến khi
giải lên hoàng đế.”22 Bấy giờ vua
Ác-ríp-pa nói với ông Phét-tô: “Tôi cũng muốn được
nghe ông ta nói.” Ông Phét-tô trả lời: “Ngày mai ngài sẽ
được nghe.”
23 Vậy hôm sau vua
Ác-ríp-pa và bà Béc-ni-kê tiến vào công đường cách rất
long trọng, cùng với các sĩ quan chỉ huy cơ đội
và các người có chức vị trong thành phố. Theo lệnh
của ông Phét-tô, người ta điệu ông Phao-lô đến.24
Ông Phét-tô nói: “Kính thưa đức vua Ác-ríp-pa và toàn thể
quư vị có mặt ở đây với chúng tôi, quư vị thấy
người này: toàn thể cộng đồng Do-thái đă
đến gặp tôi, ở Giê-ru-sa-lem cũng như ở
đây, về việc của đương sự. Họ
la lên rằng đương sự không được phép
sống nữa.25 Phần tôi, tôi không thấy
đương sự đă làm ǵ đáng chết; nhưng
v́ chính đương sự đă kháng cáo lên thánh thượng,
nên tôi đă quyết định giải về kinh.26
Về vụ của đương sự, tôi không có ǵ chắc
chắn để tâu lên chúa thượng. V́ thế tôi
đă đưa đương sự ra tŕnh diện quư vị,
và nhất là ngài, kính thưa đức vua Ác-ríp-pa, để
sau lần tra hỏi này, tôi sẽ có ǵ để tâu.27
V́ thiết tưởng giải tù nhân lên, mà không nói rơ
đương sự bị tố cáo về những tội
ǵ, th́ thật là vô lư.”
26. 1 Vua Ác-ríp-pa nói với
ông Phao-lô: “Ông được phép tự bào chữa.” Ông
Phao-lô bèn giơ tay ra tự biện hộ:
2 “Kính thưa
đức vua Ác-ríp-pa, tôi lấy làm sung sướng v́ hôm
nay sắp được tự biện hộ trước
mặt ngài, về mọi điều người Do-thái tố
cáo tôi,3 nhất là v́ ngài am hiểu tất cả những
tục lệ và những chuyện tranh luận giữa
người Do-thái. Bởi thế, xin ngài kiên nhẫn nghe
tôi nói.
4 “Tôi đă sống
như thế nào từ hồi niên thiếu, ngay từ
đầu, giữa dân tộc tôi và tại Giê-ru-sa-lem,
điều đó mọi người Do-thái đều rơ.5
Từ lâu họ đă biết, và nếu muốn, họ có
thể làm chứng rằng tôi đă sống theo phái nghiêm nhặt
nhất trong tôn giáo chúng tôi, tức là phái Pha-ri-sêu.6
Và giờ đây tôi bị đưa ra toà chính là v́ hy vọng
điều Thiên Chúa đă hứa cho cha ông chúng tôi.7
Mười hai chi tộc chúng tôi ngày đêm kiên tŕ thờ
phượng Chúa, hy vọng thấy lời hứa ấy
được thực hiện. Kính thưa đức vua,
chính v́ niềm hy vọng đó mà tôi bị người Do-thái
tố cáo.8 Sao trong quư vị lại có người
cho rằng việc Thiên Chúa làm cho kẻ chết sống lại
là chuyện không thể tin được?
9 “Về phần
tôi, trước kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi
cách để chống lại danh Giê-su người
Na-da-rét.10 Đó là điều tôi đă làm tại Giê-ru-sa-lem.
Được các thượng tế uỷ quyền, chính
tôi đă bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi họ
bị xử tử, tôi đă bỏ phiếu tán thành.11
Nhiều lần tôi đă rảo khắp các hội
đường, dùng cực h́nh cưỡng bức họ
phải nói lộng ngôn. Tôi đă giận dữ quá mức
đến nỗi sang cả các thành nước ngoài mà bắt
bớ họ.
12 “Thế là sau khi
được các thượng tế trao quyền và uỷ
nhiệm, tôi lên đường đi Đa-mát.13
Kính thưa đức vua, đang khi đi đường,
vào lúc trưa, tôi đă thấy một luồng ánh sáng chói lọi
hơn mặt trời, từ trời chiếu toả xuống
chung quanh tôi và các bạn đồng hành.14 Tất cả
chúng tôi đều ngă nhào xuống đất, và tôi nghe có tiếng
nói với tôi bằng tiếng Híp-ri: “Sa-un, Sa-un, tại sao
ngươi bắt bớ Ta? Đá lại mũi nhọn
th́ khốn cho ngươi!15 Tôi hỏi: “Thưa
Ngài, Ngài là ai? Chúa đáp: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt
bớ.16 Nhưng ngươi hăy chỗi dậy,
đứng thẳng lên. Ta hiện ra với ngươi là
để chọn ngươi làm đầy tớ và làm chứng
nhân về những điều ngươi đă thấy,
cũng như những điều Ta sẽ hiện ra mà tỏ
cho ngươi biết.17 Ta sẽ cứu
ngươi thoát khỏi tay dân Do-thái và các dân ngoại: Ta sai
ngươi đến với chúng18 để mở
mắt cho chúng, khiến chúng rời bóng tối mà trở về
cùng ánh sáng, thoát khỏi quyền lực Xa-tan mà trở về
cùng Thiên Chúa. Như vậy, nhờ tin vào Ta, chúng sẽ
được ơn tha tội và được hưởng
phần gia tài cùng với các người đă được
thánh hiến.”
19 “Từ đó,
kính thưa đức vua Ác-ríp-pa, tôi đă không cưỡng
lại thị kiến bởi trời.20 Trái lại,
tôi đă rao giảng trước hết cho những người
ở Đa-mát, rồi cho những người ở
Giê-ru-sa-lem và trong khắp miền Giu-đê, sau đó cho các
dân ngoại, kêu gọi họ sám hối và trở về
cùng Thiên Chúa, đồng thời làm những việc chứng
tỏ ḷng ăn năn sám hối.21 Chính v́ thế,
người Do-thái đă bắt tôi khi tôi đang ở trong
Đền Thờ và t́m cách giết tôi.22 Được
Thiên Chúa phù hộ, cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn tiếp
tục làm chứng trước mặt kẻ nhỏ
cũng như kẻ lớn; tôi không nói ǵ khác ngoài những
điều các ngôn sứ và ông Mô-sê đă báo trước sẽ
xảy ra,23 đó là: Đấng Ki-tô sẽ chịu
đau khổ và là người đầu tiên sống lại
từ cơi chết, để loan báo ánh sáng cho dân Do-thái
cũng như cho các dân ngoại.”
24 Ông Phao-lô c̣n
đang tự biện hộ như thế, th́ ông Phét-tô lớn
tiếng nói: “Ông Phao-lô, ông điên mất rồi! Ông hay chữ
quá nên hoá điên! “25 Ông Phao-lô đáp: “Thưa ngài Phét-tô
đáng kính, tôi không điên đâu, nhưng tôi nói lên những
điều hợp với sự thật và lẽ phải.26
Quả thế, đức vua biết rơ những điều
ấy, và tôi mạnh dạn nói với người: tôi tin
chắc rằng trong các điều ấy, không có ǵ mà
người không biết, v́ chuyện này đă không xảy
ra ở một xó nào đó.27 Kính thưa đức
vua Ác-ríp-pa, chắc là ngài tin các ngôn sứ? Tôi biết là ngài
tin.”28 Vua Ác-ríp-pa nói với ông Phao-lô: “Chút nữa là
ông thuyết phục được tôi trở thành Ki-tô hữu
rồi đấy! “29 Ông Phao-lô trả lời: “Chút
nữa hay nhiều nữa, th́ tôi cũng xin Thiên Chúa cho,
không những ngài, mà hết mọi người đang nghe
tôi nói hôm nay, được trở nên giống như tôi,
trừ ra những xiềng xích này!”
30 Bấy giờ
nhà vua, ông tổng trấn, bà Béc-ni-kê và cử toạ đứng
dậy.31 Khi ra về, họ nói với nhau: “Người
này không làm chi đáng chết hay đáng bị tù.”32
Vua Ác-ríp-pa nói với ông Phét-tô: “Đáng lẽ người
này có thể được thả ra, nếu đă chẳng
kháng cáo lên hoàng đế Xê-da.”
27. 1 Khi có quyết
định cho chúng tôi đáp tàu sang I-ta-li-a, người ta
giao ông Phao-lô và mấy tù nhân khác cho một đại đội
trưởng tên là Giu-li-ô, thuộc cơ đội
Au-gút-ta.2 Chúng tôi xuống một chiếc tàu của
thành Át-ra-mưt-ti-on, sắp nhổ neo đi các cảng miền
A-xi-a và chúng tôi ra khơi. Cùng đi với chúng tôi có anh
A-rít-ta-khô, một người Ma-kê-đô-ni-a quê
Thê-xa-lô-ni-ca.3 Hôm sau, chúng tôi cập bến
Xi-đôn; ông Giu-li-ô xử nhân đạo với ông Phao-lô,
cho phép ông đi thăm bạn hữu và để họ
săn sóc ông.4 Từ đó, chúng tôi lại ra
khơi và đi ṿng theo đảo Sưp, v́ gió ngược.5
Rồi chúng tôi vượt qua biển Ki-li-ki-a và Pam-phy-li-a
và tới My-ra miền Ly-ki-a.6 Ở đấy, viên
đại đội trưởng t́m được một
chiếc tàu của thành A-lê-xan-ri-a sắp đi I-ta-li-a, nên
ông cho chúng tôi sang tàu đó.
7 Trong ṿng nhiều
ngày, tàu đi chậm, và vất vả lắm chúng tôi mới
đến ngang Cơ-ni-đô. V́ không thuận gió, chúng tôi
đi ṿng theo đảo Cơ-rê-ta, hướng về phía
mũi Xan-mô-nê.8 Chúng tôi vất vả đi men theo
mũi đó đến một nơi gọi là Bến Lành,
gần đó có thành La-xai-a.
9 Chúng tôi đă mất
khá nhiều thời gian, và việc đi biển từ nay
thật nguy hiểm, v́ ngày ăn chay đă qua rồi. Ông
Phao-lô khuyên họ:10 “Thưa các bạn, tôi thấy
rằng chuyến đi biển này sẽ gây nhiều thiệt
hại và mất mát, chẳng những cho hàng hoá và con tàu, mà
c̣n cho tính mạng chúng ta nữa.”11 Nhưng viên
đại đội trưởng tin tài công và chủ tàu
hơn tin lời ông Phao-lô.12 V́ cảng không thích hợp
cho tàu ở lại qua mùa đông, nên đa số có ư kiến
lại ra khơi, để nếu có thể th́ cập bến
và qua mùa đông ở Phê-ních, một cảng khác trên đảo
Cơ-rê-ta quay về hướng tây nam và tây bắc.
13 Một cơn
gió nam thổi nhẹ, khiến họ tưởng rằng
có thể thực hiện được ư định, nên
nhổ neo và cho tàu đi men theo đảo Cơ-rê-ta.14
Nhưng chẳng bao lâu một trận cuồng phong, gọi
là gió đông bắc, từ đảo thổi ra.15
Tàu bị cuốn đi, không thể chống chọi với
gió, nên chúng tôi đành để cho trôi giạt.16
Khi chạy ṿng phía sau một đảo nhỏ tên là
Cau-đa, chúng tôi vất vả lắm mới gh́ chiếc
xuồng lại được.17 Kéo nó lên rồi,
họ dùng các phương tiện cấp cứu, lấy thừng
đánh đai con tàu. Rồi, v́ sợ tàu bị mắc cạn
trong vịnh Xiếc-ti, họ thả neo nổi và cứ
để tàu trôi giạt.18 Chúng tôi vẫn bị
băo dữ dội, nên hôm sau thủy thủ ném hàng hoá xuống
biển,19 và hôm sau nữa họ tự tay quăng
đồ trang bị của tàu đi.20 Đă từ
nhiều ngày, chẳng thấy mặt trời hay một v́
sao nào xuất hiện, c̣n băo vẫn thổi mạnh, nên
chúng tôi mất dần hy vọng được cứu.
21 Từ lâu không ai
ăn uống ǵ; bấy giờ ông Phao-lô đứng giữa
họ mà nói: “Thưa các bạn, phải chi các bạn đă
nghe tôi không rời đảo Cơ-rê-ta, th́ đă tránh
được những thiệt hại mất mát này.22
Nhưng giờ đây tôi khuyên các bạn cứ can đảm,
v́ không ai trong các bạn phải mất mạng đâu, chỉ
mất tàu thôi.23 Thật vậy, đêm vừa rồi,
một thiên sứ của Thiên Chúa là Chúa Tể của tôi và
là Đấng tôi phụng thờ, đă hiện ra với
tôi24 và bảo: “Này ông Phao-lô, đừng sợ! Ông
phải ra trước toà hoàng đế Xê-da; v́
thương ông, Thiên Chúa cho tất cả những người
cùng đi tàu với ông được sống.25 V́
thế, thưa các bạn, hăy can đảm lên! Tôi tin tưởng
nơi Thiên Chúa: sự việc sẽ xảy ra đúng
như lời đă phán với tôi.26 Nhưng chúng ta
sẽ phải mắc cạn ở một ḥn đảo.”
27 Đến
đêm thứ mười bốn, chúng tôi đang trôi giạt
trên biển Át-ri-a, th́ vào quăng nửa đêm, các thủy thủ
có cảm giác như đang tới gần đất.28
Thả dây ḍ đáy biển, họ thấy sâu hai
mươi sải; cách một quăng, họ lại thả
dây ḍ lần nữa, th́ thấy c̣n mười lăm sải.29
Sợ rằng tàu chúng tôi có thể đụng phải
đá ngầm, họ thả bốn chiếc neo ở đằng
lái và cầu mong cho trời mau sáng.30 Nhưng các thủy
thủ t́m cách bỏ tàu mà trốn: họ hạ chiếc xuồng
xuống biển, lấy cớ là để thả neo
đằng mũi.31 Ông Phao-lô mới bảo viên
đại đội trưởng và binh sĩ: “Nếu những
người này không ở lại trên tàu, th́ các ông không thể
được cứu đâu! “32 Lính bèn cắt
đứt dây xuồng, cho nó trôi đi.
33 Trong khi đợi
trời sáng, ông Phao-lô khuyên mọi người nên ăn uống;
ông nói: “Cho đến hôm nay là mười bốn ngày, các bạn
nhịn đói chờ đợi, không ăn ǵ cả.34
Vậy tôi khuyên các bạn nên ăn uống, v́ có thế các
bạn mới được cứu. Không ai trong các bạn
sẽ mất một sợi tóc trên đầu.”35
Nói thế rồi, ông cầm lấy bánh, dâng lời tạ
ơn Thiên Chúa trước mặt mọi người, bẻ
ra và bắt đầu ăn.36 Mọi người
lấy lại được can đảm và họ
cũng ăn uống.37 Chúng tôi ở trên tàu tất
cả là hai trăm bảy mươi sáu người.38
Sau khi ăn no, họ đổ lúa ḿ xuống biển cho
tàu nhẹ bớt.
39 Đến sáng,
họ không nhận ra được đó là đất
nào, nhưng thấy rơ một vùng có băi cát, và tính chuyện
cho tàu chạy vào, nếu có thể.40 Họ mới
gỡ các neo, bỏ lại dưới biển, đồng
thời tháo những thừng cột bánh lái ra; rồi
căng buồm đằng mũi lên cho gió thổi, hướng
thẳng vào băi.41 Nhưng họ đụng phải
băi cát ngầm, nên cho tàu mắc cạn ở đó. Mũi
tàu đâm vào cát, không nhúc nhích được, c̣n đằng
lái th́ bị sóng mạnh đánh vỡ tan.
42 Bấy giờ
binh sĩ nẩy ra ư muốn giết các người tù, v́ sợ
có người bơi được mà trốn mất.43
Nhưng viên đại đội trưởng muốn cứu
ông Phao-lô nên ngăn cản họ thực hiện ư định.
Ông ra lệnh cho những ai biết bơi th́ nhảy xuống
trước bơi vào bờ;44 c̣n những người
khác th́ bám vào ván hoặc mảnh tàu vỡ mà vào. Thế là mọi
người vào được bờ và được cứu.
28. 1 Được
cứu rồi, chúng tôi mới biết đảo ấy gọi
là Man-ta.2 Dân địa phương đối xử
với chúng tôi một cách nhân đạo hiếm có. Họ
đốt một đống lửa to và tiếp đón tất
cả chúng tôi, v́ trời đă bắt đầu mưa và
lạnh.3 Ông Phao-lô vơ được một mớ
cành khô và đang bỏ vào lửa, th́ một con rắn
độc bị nóng ḅ ra, cuốn vào tay ông.4
Người địa phương thấy con vật lủng
lẳng ở tay ông th́ bảo nhau: “Chắc chắn người
này là một tên sát nhân: hắn vừa được cứu
khỏi chết dưới biển, nhưng Thần Công Lư
đă không để cho sống.”5 Nhưng ông
giũ con vật vào lửa mà không hề hấn ǵ.6
Họ cứ đợi ông sẽ sưng phù lên hoặc
lăn ra chết; nhưng đợi lâu mà không thấy có ǵ
khác thường xảy đến cho ông, th́ đổi ư
và bảo ông là một vị thần.
7 Gần nơi ấy,
có đồn điền của viên quan lớn nhất
đảo, tên là Púp-li-ô. Ông tiếp đón chúng tôi và niềm
nở cho chúng tôi trú ngụ trong ba ngày.8 Có ông thân
sinh ông Púp-li-ô đang liệt giường v́ bị sốt
và kiết lỵ. Ông Phao-lô vào thăm, cầu nguyện,
đặt tay trên ông và chữa khỏi.9 Thấy thế,
các bệnh nhân khác trên đảo cũng đến với
ông và được chữa lành.10 Họ trọng
đăi chúng tôi, và khi chúng tôi xuống tàu, họ đă đem
tới những ǵ chúng tôi cần dùng.
11 Ba tháng sau, chúng
tôi ra khơi trên một chiếc tàu đă qua mùa đông tại
đảo; tàu này của thành A-lê-xan-ri-a và mang huy hiệu
hai thần Đi-ốt-cu-ri.12 Chúng tôi ghé vào thành
Xy-ra-cu-xa và ở lại đó ba ngày.13 Từ
nơi ấy, chúng tôi đi men theo bờ biển và tới
thành Rê-gi-ô. Ngày hôm sau có gió nam nổi lên, và sau hai ngày chúng tôi
tới cảng Pu-tê-ô-li.14 Ở đây chúng tôi gặp
được những người anh em, họ mời
chúng tôi ở lại với họ bảy ngày. Chúng tôi đến
Rô-ma như thế đó.
15 Các anh em ở
Rô-ma nghe tin chúng tôi tới th́ đến tận chợ
Áp-pi-ô và Ba Quán đón chúng tôi. Thấy họ, ông Phao-lô tạ
ơn Thiên Chúa và thêm can đảm.16 Khi chúng tôi vào
Rô-ma, ông Phao-lô được phép ở nhà riêng cùng với
người lính canh giữ ông.
17 Ba ngày sau, ông mời các thân hào Do-thái
đến. Khi họ
đă tới đông đủ, ông nói với họ:
“Thưa anh em, tôi đây, mặc dầu đă không làm ǵ chống
lại dân ta hay các tục lệ của tổ tiên, tôi
đă bị bắt tại Giê-ru-sa-lem và bị nộp vào
tay người Rô-ma.18 Sau khi điều tra, họ
muốn thả tôi, v́ tôi không có tội ǵ đáng chết.19
Nhưng v́ người Do-thái chống đối, nên bó buộc
tôi phải kháng cáo lên hoàng đế Xê-da; tuy vậy không phải
là tôi muốn tố cáo dân tộc tôi.20 Đó là lư do
khiến tôi xin được gặp và nói chuyện với
anh em, bởi chính v́ niềm hy vọng của Ít-ra-en mà tôi
phải mang xiềng xích này.”
21 Họ nói với ông: “Về phía chúng
tôi, chúng tôi không nhận được thư nào từ
Giu-đê nói về ông, cũng chẳng có ai trong các anh em
đến đây báo cáo hoặc nói ǵ xấu về ông.22Chúng
tôi muốn được nghe ông tŕnh bày ư nghĩ của
ông, v́ chúng tôi biết là phái của ông đến đâu
cũng gặp chống đối.”
23 Họ hẹn ngày với ông, và hôm
đó đến gặp ông tại nhà trọ đông
hơn. Ông tŕnh bày cho họ
và long trọng làm chứng về Nước Thiên Chúa; từ
sáng đến chiều, ông dựa vào Luật Mô-sê và các ngôn
sứ mà nói về Đức Giê-su, để cố thuyết
phục họ.24 Nghe ông nói, người th́
được thuyết phục, người th́ không chịu
tin.25 Khi giải tán, họ vẫn không đồng
ư với nhau; ông Phao-lô chỉ nói thêm một lời: “Thánh Thần
đă nói rất đúng khi dùng ngôn sứ I-sai-a mà phán với
cha ông anh em26 rằng: Hăy đến gặp dân này và
nói: Các ngươi có lắng tai nghe cũng không hiểu, có
trố mắt nh́n cũng chẳng thấy;27 v́ ḷng
dân này đă ra chai đá: chúng đă bịt tai nhắm mắt,
kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và ḷng hiểu
được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa
chúng cho lành.
28 “Vậy xin anh em biết cho rằng:
ơn cứu độ này của Thiên Chúa đă được
gửi đến cho các dân ngoại; họ th́ họ sẽ
nghe.”29 Ông nói thế rồi th́ người
Do-thái đi ra, tranh luận với nhau rất sôi nổi.
30 Suốt hai năm tṛn, ông Phao-lô ở
tại nhà ông đă thuê, và tiếp đón tất cả những
ai đến với ông.31 Ông rao giảng Nước
Thiên Chúa và dạy về Chúa Giê-su Ki-tô, một cách rất mạnh
dạn, không gặp ngăn trở nào.