1. 1
Tôi là Phao-lô, bởi ư Thiên Chúa được làm Tông Đồ
của Đức Ki-tô Giê-su, và Ti-mô-thê là người anh em,
kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, cùng với
mọi người trong dân thánh trong khắp miền
A-khai-a.2 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chúa Giê-su Ki-tô
ban cho anh em ân sủng và b́nh an.
3 Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ
Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu ḷng từ bi lân
ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an.4
Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi
cơn gian nan thử thách, để sau khi đă được
Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi
những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.5 V́ cũng
như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của
Đức Ki-tô, th́ nhờ Người, chúng ta cũng
được chứa chan niềm an ủi.6 Chúng
tôi có phải chịu gian nan, th́ đó là để anh em
được an ủi và được cứu độ.
Chúng tôi có được an ủi, th́ cũng là để
anh em được an ủi, khiến anh em có sức kiên
tŕ chịu đựng cùng những nỗi thống khổ
mà chính chúng tôi phải chịu.7 Chúng tôi lấy làm
an tâm về anh em, v́ biết rằng anh em thông phần thống
khổ với chúng tôi thế nào, th́ cũng sẽ
được thông phần an ủi như vậy.
8 Thật thế, thưa anh em, chúng tôi không muốn
để anh em chẳng hay biết ǵ về nỗi gian
truân chúng tôi đă gặp bên A-xi-a: chúng tôi đă phải chịu
đựng quá mức, quá sức chúng tôi, đến nỗi
chúng tôi không c̣n hy vọng sống nổi.9 Nhưng
chúng tôi đă mang án tử nơi chính bản thân rồi,
để chúng tôi không tin tưởng vào chính ḿnh, mà vào Thiên
Chúa, Đấng làm cho kẻ chết trỗi dậy.10
Chính Người đă cứu và sẽ c̣n cứu chúng tôi khỏi
một cái chết như thế. Người
là Đấng chúng tôi trông cậy, Người sẽ c̣n cứu
chúng tôi nữa.11 C̣n anh em, hăy lấy lời cầu
nguyện mà trợ giúp chúng tôi. Như vậy, Thiên Chúa
sẽ ban ơn cho chúng tôi nhờ lời cầu thay nguyện
giúp của nhiều người; và do đó, nhiều
người sẽ cảm tạ Thiên Chúa v́ Người
đă thương chúng tôi.
12 Điều khiến chúng tôi tự hào
là lương tâm chúng tôi làm chứng rằng: chúng tôi lấy
sự thánh thiện và chân thành Thiên Chúa ban mà cư xử với
người ta ở đời, đặc biệt là với
anh em. Chúng tôi không cư xử theo lẽ
khôn ngoan người đời, nhưng theo ân sủng của
Thiên Chúa.13 Thật thế, chúng tôi không viết cho
anh em điều ǵ khác ngoài những điều anh em có thể
đọc và hiểu được. Và tôi hy vọng anh em
sẽ hiểu đến nơi đến chốn,14 như anh em đă hiểu chúng tôi
phần nào: chúng tôi là niềm vinh dự của anh em,
cũng như anh em là niềm vinh dự của chúng tôi trong
Ngày của Đức Giê-su, Chúa chúng ta.
15 Với ḷng tin tưởng đó, tôi
định đến với anh em trước để
anh em được hưởng ân phúc lần thứ hai;16
rồi từ nơi anh em, tôi đi Ma-kê-đô-ni-a; sau đó
lại từ Ma-kê-đô-ni-a về với anh em, để
anh em đưa tôi đi Giu-đê.17 Dự tính
như thế, phải chăng tôi đă tỏ ra nhẹ dạ?
Hay điều tôi dự tính là dự tính theo kiểu người
phàm, khiến tôi vừa nói “có” lại vừa nói “không”?18 Xin Thiên Chúa trung thành chứng giám
cho chúng tôi! Lời chúng tôi nói với anh em chẳng phải
vừa là “có” vừa là “không”.19 V́ Đức Ki-tô
Giê-su, Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng tôi, là Xin-va-nô, Ti-mô-thê
và tôi, rao giảng cho anh em, đă không vừa là “có” vừa
là “không”, nhưng nơi Người chỉ toàn là “có”.20
Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều
là “có” nơi Người. V́ thế, cũng nhờ Người
mà chúng ta hô lên “A-men” để tôn vinh Thiên Chúa.21
Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong
Đức Ki-tô và đă xức dầu cho chúng ta, Đấng
ấy là Thiên Chúa.22 Chính Người cũng đă
đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào ḷng
chúng ta làm bảo chứng.
23 Phần tôi, có Thiên Chúa chứng giám,
tôi xin lấy mạng sống mà thề rằng: chính v́ nể
anh em mà tôi đă không đến Cô-rin-tô nữa.24
Không phải là chúng tôi khống chế đức tin của
anh em; trái lại, chúng tôi góp phần tạo niềm vui cho
anh em, bởi v́ đức tin của anh em đă vững rồi.
2. 1
Vậy, tôi đă quyết định không trở lại với
anh em trong lúc ưu phiền.2 Thật thế, nếu
chính tôi gây ưu phiền cho anh em, th́ ai là người làm
cho tôi vui được, nếu không phải là kẻ
ưu phiền v́ tôi?3 Tôi đă viết trong thư
như vậy là để khi đến, tôi khỏi phải
ưu phiền v́ chính những người đáng lẽ phải
làm cho tôi vui, bởi v́ đối với tất cả anh
em, tôi xác tín rằng niềm vui của tôi cũng là niềm
vui của tất cả anh em.4 Thật thế, tôi
đă vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt
chan hoà khi viết cho anh em: tôi viết không phải để
gây ưu phiền, nhưng là để cho anh em biết tôi
hết ḷng yêu mến anh em.
5 Nếu có ai đă gây ưu phiền, th́ không phải
là gây ưu phiền cho tôi, mà cho tất cả anh em, một
phần nào đó – nói thế, kẻo sợ quá lời.6
Con người đó bị số đông phạt như thế
là đủ rồi.7 V́ vậy, tốt hơn, anh
em phải tha thứ và an ủi, kẻo người đó
bị ch́m đắm trong nỗi ưu phiền quá mức
chăng.8 Cho nên, đối với người
đó, tôi khuyên anh em hăy đặt t́nh bác ái lên trên hết.9
Thật thế, sở dĩ tôi đă viết thư cho anh
em, là để thử anh em, xem anh em có vâng phục về mọi
mặt chăng.10 Anh em tha thứ cho ai, th́ tôi
cũng tha thứ cho người ấy. Và nếu tôi đă
tha thứ -trong trường hợp phải tha thứ-, th́
cũng là v́ anh em, trước mặt Đức Ki-tô,11 kẻo chúng ta bị Xa-tan phỉnh
gạt, v́ chúng ta không lạ ǵ ư đồ của nó.
12 Khi tôi đến
Trô-a rao giảng Tin Mừng Đức Ki-tô, dù cửa đă
mở cho tôi để làm việc Chúa,13
nhưng tôi vẫn không yên ḷng, v́ không gặp Ti-tô, người
anh em của tôi. Tôi từ giă những người ở
đó để đi Ma-kê-đô-ni-a.
14 Tạ ơn
Thiên Chúa, Đấng hằng cho chúng tôi tham dự cuộc
khải hoàn trong Đức Ki-tô, tạ ơn Người
là Đấng đă dùng chúng tôi mà làm cho sự nhận biết
Đức Ki-tô, như hương thơm, lan toả khắp
nơi.15 V́ chúng tôi là hương thơm của
Đức Ki-tô dâng kính Thiên Chúa, toả ra giữa những
người được cứu độ cũng
như những kẻ bị hư mất.16 Đối
với những người bị hư mất, chúng tôi là
mùi tử khí đưa đến tử vong; nhưng đối
với những người được cứu độ,
chúng tôi lại là hương sự sống đưa đến
sự sống. Nhưng ai là người có khả năng
thực hiện những điều ấy?17
Thật thế, chúng tôi không phải như nhiều người,
những kẻ xuyên tạc Lời Chúa, mà với tư cách
là những người trung thực, được Thiên
Chúa sai đi, chúng tôi lên tiếng trước mặt Người,
trong Đức Ki-tô.
3. 1 Phải chăng chúng tôi lại bắt
đầu tự giới thiệu ḿnh? Hoặc chẳng lẽ,
như vài người, chúng tôi lại cần có thư giới
thiệu chúng tôi với anh em, hoặc thư của anh em giới
thiệu chúng tôi?2 Thư giới
thiệu chúng tôi là chính anh em. Thư ấy viết trong tâm hồn
chúng tôi, mọi người đều biết và đă
đọc.3 Rơ ràng anh em là bức thư của
Đức Ki-tô được giao cho chúng tôi chăm sóc,
không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng
Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi
trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những
tấm bia bằng thịt, tức là ḷng người.
4 Nhờ Đức
Ki-tô, chúng tôi dám tin tưởng vào Thiên Chúa như vậy.5
Không phải v́ tự chúng tôi, chúng tôi có khả năng để
nghĩ rằng ḿnh làm được ǵ, nhưng khả
năng của chúng tôi là do ơn Thiên Chúa,6 Đấng
ban cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới,
không phải Giao Ước căn cứ trên chữ viết,
nhưng dựa vào Thần Khí. V́ chữ viết th́ giết
chết, c̣n Thần Khí mới ban sự sống.7 Nếu
việc phục vụ Lề Luật -thứ Lề Luật
chỉ đưa đến sự chết và được
khắc ghi từng chữ trên những bia đá- mà
được vinh quang đến nỗi dân Ít-ra-en không thể
nh́n mặt ông Mô-sê được, v́ mặt ông chói lọi
vinh quang -dù đó chỉ là vinh quang chóng qua-,8 th́ việc
phục vụ Thần Khí lại không được vinh
quang hơn sao?9 V́ việc phục vụ án chết
mà c̣n được vinh quang như thế, th́ việc phục
vụ đức công chính lại chẳng vinh quang hơn lắm
sao?10 So với vinh quang tuyệt vời này, th́ vinh
quang xưa kia chẳng vinh quang ǵ.11 Thật vậy,
nếu cái chóng qua mà c̣n được vinh quang, th́ cái c̣n măi
lại chẳng vinh quang hơn sao?
12 V́ có một niềm
hy vọng như thế mà chúng ta thật vững dạ an
ḷng.13 Chúng ta không làm như ông Mô-sê lấy màn che
để dân Ít-ra-en khỏi thấy khi nào cái chóng qua kia chấm
dứt.14 Nhưng trí họ đă ra mê muội. Thật
vậy, cho đến ngày nay, khi họ đọc Cựu
Ước, tấm màn ấy vẫn c̣n, chưa được
vén lên, v́ chỉ trong Đức Ki-tô, tấm màn ấy mới
được vứt bỏ.15 Phải, cho đến
nay, mỗi khi họ đọc sách ông Mô-sê, tấm màn vẫn
che phủ ḷng họ.16 Nhưng khi người ta
quay lại với Chúa, th́ tấm màn mới được
cất đi.17 Chúa là Thần Khí, và ở đâu có
Thần Khí của Chúa, th́ ở đó có tự do.18
Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu
vinh quang của Chúa như một bức gương;
như vậy, chúng ta được biến đổi nên
giống cũng một h́nh ảnh đó, ngày càng trở nên
rực rỡ hơn, như do bởi tác động của
Chúa là Thần Khí.
4. 1 Bởi thế, v́ Thiên Chúa đoái
thương giao cho chúng tôi công việc phục vụ, nên
chúng tôi không sờn ḷng nản chí.2 Trái lại, chúng
tôi khước từ những cách hành động ám muội,
đáng xấu hổ, và không dùng mưu mô mà xử trí,
cũng chẳng xuyên tạc lời Thiên Chúa; nhưng chúng
tôi giăi bày sự thật, và bằng cách đó, chúng tôi để
cho lương tâm mọi người phê phán trước mặt
Thiên Chúa.3 Tin Mừng chúng tôi rao giảng có bị
che khuất, th́ chỉ bị che khuất đối với
những người hư mất,4 đối với
những kẻ không tin. Họ không tin, v́ tên ác thần của
đời này đă làm cho tâm trí họ ra mù quáng, khiến họ
không thấy bừng sáng lên Tin Mừng nói về vinh quang của
Đức Ki-tô, là h́nh ảnh Thiên Chúa.5 Bởi chúng
tôi không rao giảng chính ḿnh, mà chỉ rao giảng Đức
Ki-tô Giê-su là Chúa; c̣n chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của
anh em, v́ Đức Giê-su.6 Quả thật, xưa
Thiên Chúa đă phán: Ánh sáng hăy bừng lên từ nơi tối
tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi ḷng trí
chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được
biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên
gương mặt Đức Ki-tô.
7 Nhưng kho tàng ấy,
chúng tôi lại chứa đựng trong những b́nh sành,
để chứng tỏ quyền năng phi thường
phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng
tôi.8 Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng
không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng;9
bị ngược đăi, nhưng không bị bỏ
rơi; bị quật ngă, nhưng không bị tiêu diệt.10
Chúng tôi luôn mang nơi thân ḿnh cuộc thương khó của
Đức Giê-su, để sự sống của Đức
Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân ḿnh
chúng tôi.11 Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng
bị cái chết đe doạ v́ Đức Giê-su, để
sự sống của Đức Giê-su cũng được
biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng
tôi.12 Như thế, sự chết hoạt động
nơi chúng tôi, c̣n sự sống th́ lại hoạt động
nơi anh em.
13 V́ có được
cùng một ḷng tin, như đă chép: Tôi đă tin, nên tôi mới
nói, th́ chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói.14 Quả
thật, chúng tôi biết rằng Đấng đă làm cho
Chúa Giê-su trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi
được trỗi dậy với Chúa Giê-su, và đặt
chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em.15 Thật
vậy, tất cả những điều ấy xảy ra
là v́ anh em. Như thế, ân sủng càng dồi dào, th́ càng có
đông người hơn dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm
tạ, để tôn vinh Người.
16 Cho nên chúng tôi
không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của
chúng tôi có tiêu tan đi, th́ con người bên trong của
chúng tôi ngày càng đổi mới.17 Thật vậy,
một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ
mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận,
tuyệt vời.18 V́ thế, chúng ta mới không chú
tâm đến những sự vật hữu h́nh, nhưng
đến những thực tại vô h́nh. Quả vậy,
những sự vật hữu h́nh th́ chỉ tạm thời,
c̣n những thực tại vô h́nh mới tồn tại
vĩnh viễn.
5. 1 Quả thật,
chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà của chúng ta ở
dưới đất, là chiếc lều này, bị phá huỷ
đi, th́ chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng
lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do
tay người thế làm ra.2 Do đó, chúng ta rên siết
là v́ những ước mong được thấy ngôi nhà
thiên quốc của chúng ta phủ lên chiếc lều kia,3
miễn là chúng ta có mặc áo, chứ không phải trần
trụi.4 Thật thế, bao lâu c̣n ở trong chiếc
lều này, chúng ta rên siết, khổ tâm v́ không muốn cởi
bỏ cái này, nhưng lại muốn trùm thêm lên ḿnh cái kia,
để cho cái phải chết tiêu tan trong sự sống.5
Đấng đă tạo thành chúng ta v́ mục đích ấy
chính là Thiên Chúa, Người đă ban Thần Khí cho chúng ta
làm bảo chứng.
6 Vậy chúng tôi
luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại
trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa,7 v́ chúng ta tiến
bước nhờ ḷng tin chứ không phải nhờ
được thấy Chúa…8 Vậy, chúng tôi luôn mạnh
dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là ĺa bỏ
thân xác để được ở bên Chúa.9
Nhưng, dù c̣n ở trong thân xác hoặc đă ĺa bỏ thân
xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp
ḷng Người.10V́ tất cả chúng ta đều
phải được đưa ra ánh sáng, trước toà
Đức Ki-tô, để mỗi người lănh nhận
những ǵ tương xứng với các việc tốt
hay xấu đă làm, khi c̣n ở trong thân xác.
11 Vậy, v́ biết
kính sợ Chúa, chúng tôi cố gắng thuyết phục
người ta; c̣n đối với Thiên Chúa, th́ mọi sự
nơi chúng tôi đều lộ trần trước mặt
Người. Và tôi hy vọng rằng mọi sự nơi
chúng tôi cũng lộ trần như vậy trước
lương tâm của anh em.12 Chúng tôi không nói hay cho
ḿnh để tự giới thiệu một lần nữa
với anh em, nhưng cho anh em một cơ hội tự
hào về chúng tôi, để anh em có thể trả lời
cho những ai chỉ biết kiêu hănh về những vẻ
bề ngoài, chứ không phải về những ǵ trong tâm hồn.13
Thật vậy, chúng tôi có điên, th́ cũng là v́ Thiên Chúa;
chúng tôi có khôn, th́ cũng là v́ anh em.14 T́nh yêu Đức
Ki-tô thôi thúc chúng tôi, v́ chúng tôi nghĩ rằng: nếu một
người đă chết thay cho mọi người, th́ mọi
người đều chết.15 Đức Ki-tô
đă chết thay cho mọi người, để những
ai đang sống không c̣n sống cho chính ḿnh nữa, mà sống
cho Đấng đă chết và sống lại v́ ḿnh.
16 V́ thế, từ
đây chúng tôi không c̣n biết một ai theo quan điểm
loài người. Và cho dù chúng tôi đă được biết
Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, th́ giờ
đây chúng tôi không c̣n biết Người như vậy nữa.17
Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ
tạo mới. Cái cũ đă qua, và cái mới đă có
đây rồi.18 Mọi sự ấy đều do
bởi Thiên Chúa là Đấng đă nhờ Đức Ki-tô
mà cho chúng ta được hoà giải với Người,
và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải.19 Thật
vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đă cho thế gian
được hoà giải với Người. Người
không c̣n chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi
công bố lời hoà giải.20 V́ thế, chúng tôi là
sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể
chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh
Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hăy làm hoà với Thiên
Chúa.21 Đấng chẳng hề biết tội là
ǵ, th́ Thiên Chúa đă biến Người thành hiện thân của
tội lỗi v́ chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính
trong Người.
6. 1 V́ được
cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em
đă lănh nhận ân huệ của Thiên Chúa, th́ đừng
để trở nên vô hiệu.2 Quả thế,
Chúa phán rằng: Ta đă nhận lời ngươi vào thời
Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ.
Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên
Chúa cứu độ.3 Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng
làm ǵ gây cớ cho ai vấp phạm, để không người
nào có thể đàm tiếu về công việc phục vụ
của chúng tôi.4 Trái lại, trong mọi sự,
chúng tôi luôn chứng tỏ ḿnh là những thừa tác viên của
Thiên Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu,5 đ̣n vọt,
tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất
ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên
tŕ chịu đựng.6 Chúng tôi c̣n chứng tỏ
điều đó bằng cách ăn ở trong sạch, khôn
khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần
thánh thiện, một t́nh thương không giả dối,7
bằng lời chân lư, bằng sức mạnh của Thiên
Chúa. Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và
tự vệ,8 khi vinh cũng
như khi nhục, lúc được tiếng tốt
cũng như khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm,
nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành;9 bị coi
là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi
được mọi người biết đến; bị
coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn
sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ
thực không bị giết chết;10 coi như phải
ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ;
coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao
người trở nên giàu có; coi như không có ǵ, nhưng kỳ
thực chúng tôi có tất cả.
11 Thưa anh em
người Cô-rin-tô, chúng tôi đă chân thành ngỏ lời với
anh em, chúng tôi đă mở rộng tấm ḷng.12
Chúng tôi không hẹp ḥi với anh em đâu, nhưng chính ḷng
dạ anh em hẹp ḥi.13 Vậy anh em hăy đền
đáp chúng tôi; tôi nói với anh em như nói với con cái:
anh em cũng hăy mở rộng tấm ḷng.
14 Anh em đừng
mang chung một ách với những kẻ không tin. Thật
thế, làm sao sự công chính lại liên kết được
với sự bất chính? Làm sao ánh sáng lại dung hoà
được với bóng tối?15
Làm sao Đức Ki-tô lại hoà hợp được với
Bê-li-a? Làm sao người tin lại chung phần được
với người không tin?16 Làm
sao đền thờ Thiên Chúa lại đi đôi với tà
thần được? V́ chính chúng ta là đền thờ
của Thiên Chúa hằng sống, như lời Người
phán: Ta sẽ đến cư ngụ và đi đi lại
lại giữa họ. Ta sẽ là Thiên Chúa của họ, và
họ sẽ là dân riêng của Ta.17 V́ thế, hăy ra
khỏi dân ấy, hăy rời xa chúng – Chúa phán như vậy.
Đừng có đụng tới vật ô uế nào, và Ta sẽ
đón nhận các ngươi.18 Ta sẽ là Cha các
ngươi, và các ngươi sẽ là con trai, con gái của
Ta. Chúa toàn năng phán như vậy.
7. 1 Anh em thân mến,
v́ nắm được những lời hứa ấy, nên
chúng ta hăy tẩy rửa hồn xác cho sạch mọi vết
nhơ, và đem ḷng kính sợ Thiên Chúa mà lo đạt tới
mức thánh thiện hoàn toàn.
2 Anh em hăy dành cho chúng tôi một chỗ trong ḷng anh
em. Chúng tôi đă không làm hại ai, không làm cho ai phải sạt
nghiệp, không bóc lột ai.3 Tôi nói thế không phải
để lên án anh em, v́ tôi đă từng nói: anh em hằng ở
trong ḷng chúng tôi, sống chết chúng ta đều có nhau.4
Tôi rất tin tưởng anh em, tôi rất hănh diện về
anh em. Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập
nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó.
5 Thật thế,
khi đến Ma-kê-đô-ni-a, thân xác chúng tôi chẳng
được nghỉ ngơi chút nào; trái lại, ở
đâu cũng gặp gian nan khốn khó: bên ngoài phải chiến
đấu, bên trong phải lo sợ.6 Nhưng Thiên
Chúa, Đấng an ủi những kẻ yếu hèn, đă
an ủi chúng tôi bằng cách sai anh Ti-tô đến.7
Chúng tôi được an ủi không những v́ anh Ti-tô
đến, mà c̣n v́ anh ấy đă được anh em an ủi.
Anh ấy đă cho chúng tôi biết là anh em nóng ḷng mong đợi,
buồn phiền, nhưng vẫn đầy nhiệt t́nh
đối với tôi, khiến tôi càng vui mừng hơn nữa.
8 Dù trong bức
thư trước tôi có làm cho anh em phải ưu phiền,
tôi cũng không hối tiếc. Mà giả như có hối tiếc
-v́ thấy rằng bức thư ấy đă làm cho anh em phải
ưu phiền, tuy chỉ trong chốc lát-,9 th́ nay
tôi lại vui mừng, không phải v́ đă làm cho anh em phải
ưu phiền, nhưng v́ nỗi ưu phiền đó
đă làm cho anh em hối cải. Thật thế, anh em
đă phải ưu phiền theo ư Thiên Chúa, nên chúng tôi không
làm thiệt hại ǵ cho anh em.10 Quả vậy, nỗi
ưu phiền theo ư Thiên Chúa làm cho chúng ta hối cải
để được cứu độ: đó là điều
không bao giờ phải hối tiếc; c̣n nỗi ưu phiền
theo kiểu thế gian th́ gây ra sự chết.11 Hăy
xem nỗi ưu phiền theo ư Thiên Chúa đă đem lại
cho anh em những ǵ: bao nồng nhiệt, và hơn thế nữa,
bao lời xin lỗi, bao ân hận, bao sợ hăi, bao ước
mong, bao nhiệt t́nh, bao h́nh phạt; bằng mọi cách, anh
em đă chứng tỏ ḿnh vô can trong vụ này.12 Vậy,
nếu tôi đă viết thư cho anh em, th́ không phải v́ kẻ
làm nhục hay người bị nhục, nhưng để
cho thái độ nồng nhiệt của anh em đối với
chúng tôi được tỏ hiện nơi anh em, trước
mặt Thiên Chúa.13 Đó là điều an ủi chúng
tôi.
14 Nếu trước
mặt anh ấy, tôi đă có đôi chút tự hào về anh
em, th́ tôi cũng không hổ thẹn. Trái lại, trong mọi
sự, chúng tôi đă nói thật với anh em thế nào, th́
thái độ tự hào của chúng tôi trước mặt anh
Ti-tô cũng chân thật như vậy.15 Ḷng anh ấy
càng tha thiết quư mến anh em, khi nhớ lại anh em
đă vâng lời, đă kính sợ và run rẩy đón tiếp
anh.16 Tôi vui mừng v́ trong mọi sự tôi có thể
tin cậy anh em.
8. 1 Thưa anh em,
chúng tôi xin báo cho anh em biết ân huệ Thiên Chúa đă ban cho
các Hội Thánh ở Ma-kê-đô-ni-a.2 Trải qua bao
nỗi gian truân, họ vẫn được chan chứa
niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ lại
trở nên những người giàu ḷng quảng đại.3
Họ đă tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm
chứng là quá sức họ nữa;4 họ khẩn
khoản nài xin chúng tôi cho họ được phúc tham dự
vào việc phục vụ các người trong dân thánh.5
Họ đă vượt quá điều chúng tôi mong ước
là tự hiến ḿnh phụng sự Chúa trước, rồi
phục vụ chúng tôi theo ư Thiên Chúa.6 V́ vậy chúng
tôi đă xin anh Ti-tô hoàn thành công việc lạc quyên đó
nơi anh em, như anh ấy đă bắt đầu làm.
7 Cũng như
anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về
đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, ḷng
nhiệt thành trong mọi lănh vực, và về ḷng bác ái mà
anh em đă học được nơi chúng tôi, th́ anh em
cũng phải trổi vượt về ḷng quảng
đại trong dịp lạc quyên này nữa.8 Tôi
nói thế không phải để ra lệnh cho anh em đâu.
Nhưng tôi chỉ nêu lên ḷng nhiệt thành của người
khác để xem ḷng yêu mến của anh em chân thành đến
mức nào.9 Quả thật, anh em biết Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đă có ḷng quảng đại
như thế nào: Người vốn giàu sang phú quư,
nhưng đă tự ư trở nên nghèo khó v́ anh em, để
lấy cái nghèo của ḿnh mà làm cho anh em trở nên giàu có.10
Về điều này, tôi xin đưa ra một ư kiến.
Ư kiến đó thích hợp với anh em, v́ anh em là những
người đầu tiên, chẳng những đă thực
hiện công cuộc đó, mà c̣n đă quyết định
làm ngay từ năm ngoái.11 Vậy nay anh em hăy hoàn
thành công cuộc đó, để như anh em đă hăng
hái quyết định thế nào, th́ cũng tuỳ khả
năng mà hoàn thành như vậy.12 V́ khi người
ta hăng hái dâng cái ḿnh có, th́ Thiên Chúa chấp nhận; c̣n nếu
không có th́ thôi.13 Vấn đề không phải là bắt
anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt
nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự
đồng đều.14 Trong hoàn cảnh hiện tại,
anh em có được dư giả, là để giúp đỡ
những người đang lâm cảnh túng thiếu, để
rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ
giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như
thế, sẽ có sự đồng đều,15 hợp với lời đă chép: Kẻ
được nhiều th́ không dư, mà người
được ít th́ không thiếu.
16 Cảm tạ
Thiên Chúa đă đặt vào ḷng anh Ti-tô một sự nhiệt
thành như thế đối với anh em:17 anh
đă nhận lời yêu cầu của tôi và đă nhiệt
thành tự nguyện tới thăm anh em.18 Cùng với
anh Ti-tô, chúng tôi cử một người anh em rao giảng
Tin Mừng nổi tiếng trong khắp các Hội Thánh.19
Không những thế, anh lại được các Hội
Thánh chỉ định cùng đi với chúng tôi lo việc
lạc quyên, một việc nghĩa chúng tôi đảm nhận,
để tôn vinh Chúa và biểu lộ ḷng hăng hái của
chúng tôi.20 Chúng tôi đề pḥng như thế,
để không ai chê trách được chúng tôi về món tiền
lớn chúng tôi chịu trách nhiệm.21 V́ chúng tôi
quan tâm đến điều thiện, không những trước
mặt Chúa, mà cả trước mặt người ta.22
Chúng tôi lại cử thêm một người anh em nữa của
chúng tôi cùng đi với hai người nói trên. Chúng tôi
thường hay có dịp thử ḷng nhiệt thành của
anh ấy bằng nhiều cách; và nay anh c̣n nhiệt thành
hơn nữa, v́ đầy ḷng tin tưởng vào anh em.23
Về phần anh Ti-tô, anh vừa là bạn đường,
vừa là người cộng tác với tôi trong việc phục
vụ anh em. C̣n về hai người anh em kia của chúng
tôi, họ là sứ giả của các Hội Thánh và là vinh
quang của Đức Ki-tô.24 Vậy, trước
mặt các Hội Thánh, anh em hăy tỏ cho những người
đó thấy đức ái của anh em, và cho họ biết
là chúng tôi có lư để tự hào về anh em.
9. 1 Về việc
phục vụ các người trong dân thánh, tôi có viết cho
anh em th́ kể cũng bằng thừa,2
v́ tôi biết ḷng hăng hái của anh em. Điều đó
làm cho tôi tự hào v́ anh em mà khoe với các anh em vùng
Ma-kê-đô-ni-a rằng: “Xứ A-khai-a đă sẵn sàng từ
năm ngoái”. Và nhiệt t́nh của anh em đă khích lệ rất
nhiều người.3 Tôi cử mấy người
anh em đi để niềm tự hào của chúng tôi về
thiện chí của anh em khỏi trở thành hư ảo,
và để anh em được sẵn sàng, như tôi
đă nói.4 Chẳng vậy, lúc anh em Ma-kê-đô-ni-a
cùng đến với tôi mà thấy anh em không sẵn sàng,
th́ chúng tôi phải xấu hổ v́ đă tin cậy như
thế, nếu không muốn nói là cả anh em nữa
cũng phải xấu hổ.5 Vậy, tôi nghĩ cần
phải xin mấy người anh em đến với anh
em trước chúng tôi và chuẩn bị cho anh em quyên góp rộng
răi như đă hứa, để anh em sẵn sàng quyên góp với
ḷng quảng đại, chứ không phải theo tính hẹp
ḥi.
6 Tôi xin nói điều
này: gieo ít th́ gặt ít; gieo nhiều th́ gặt nhiều.7
Mỗi người hăy cho tuỳ theo quyết định của
ḷng ḿnh, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng,
v́ ai vui vẻ dâng hiến, th́ được Thiên Chúa yêu
thương.8 Vả lại, Thiên Chúa có đủ
quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân
huệ, để anh em vừa được luôn đầy
đủ mọi mặt, vừa được dư thừa
mà làm mọi việc thiện,9 theo như lời
đă chép: Kẻ túng nghèo, Người rộng tay làm phúc;
đức công chính của Người tồn tại muôn
đời.
10 Đấng cung
cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của
ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật
hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công
chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào.11
Anh em sẽ được sung túc mọi bề để
làm mọi việc thiện cách rộng răi. Những việc
chúng ta làm sẽ khiến người ta dâng lời cảm
tạ Thiên Chúa.12 Thật thế, việc phục vụ
cho công ích này không những đáp ứng nhu cầu của của
các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, c̣n là
nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa.13
Việc phục vụ này là một bằng cớ cho họ
tôn vinh Thiên Chúa, v́ thấy anh em vâng phục và tuyên xưng
Tin Mừng của Đức Ki-tô, và v́ thấy anh em có ḷng
quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với họ và
với mọi người.14 C̣n họ, họ sẽ
cầu nguyện cho anh em để tỏ ḷng quư mến, bởi
nhận thấy ân huệ tuyệt vời Thiên Chúa đổ
xuống trên anh em.15 Xin cảm tạ Thiên Chúa v́ phúc
lộc khôn tả Người ban!
10. 1 Chính tôi, Phao-lô, một
kẻ trước mặt anh em th́ khúm núm, mà vắng mặt
th́ lại ra oai, tôi xin dựa vào ḷng nhân từ và khoan dung của
Đức Ki-tô mà khuyên nhủ anh em.2 Tôi xin anh em chớ
bắt buộc tôi, khi có mặt, phải mạnh dạn ra
oai mà tính đến chuyện thẳng tay với những kẻ
cho rằng chúng tôi chỉ biết sống theo tính xác thịt.3
Quả thế, chúng tôi đang sống trong xác phàm, nhưng
không chiến đấu theo tính xác thịt.4 Thật
vậy, khí giới chúng tôi dùng để chiến đấu
không phải là thứ khí giới thuộc xác thịt,
nhưng là những khí giới, nhờ Thiên Chúa, có sức
đánh đổ các đồn luỹ. Chúng tôi đánh
đổ các kiểu lư luận5 và mọi thái độ
kiêu căng chống lại sự hiểu biết Thiên Chúa.
Chúng tôi bắt mọi tư tưởng phải đầu
hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức
Ki-tô.6 Chúng tôi sẵn sàng sửa trị mọi kẻ
bất tuân, một khi anh em đă hoàn toàn vâng phục.
7 Anh em hăy nh́n nhận
những ǵ sờ sờ trước mắt. Nếu có ai tự
phụ ḿnh thuộc về Đức Ki-tô, th́ hăy nhận thức
một lần nữa điều này: họ thuộc về
Đức Ki-tô làm sao, th́ chúng tôi cũng vậy.8 V́
cho dầu tôi có tự hào quá đáng một đôi chút về
quyền Chúa đă ban cho chúng tôi để xây dựng, chứ
không phải để đánh đổ anh em, th́ tôi
cũng không lấy làm xấu hổ,9 kẻo
như muốn dùng thư từ mà làm cho anh em phải khiếp
sợ.10 Có kẻ nói rằng: “Trong thư th́ nghiêm
khắc và hùng hổ; nhưng khi có mặt th́ nhu nhược,
nói chẳng ra hồn.”11 Xin họ biết cho rằng:
khi vắng mặt, chúng tôi viết thư làm sao, th́ khi có mặt,
chúng tôi cũng hành động như vậy.
12 Thật ra, chúng
tôi đâu dám cho ḿnh ngang hàng hay so sánh ḿnh với những kẻ
tự cao tự đại kia. Nhưng khi họ lấy
ḿnh làm tiêu chuẩn để tự đánh giá và so sánh, th́
họ không được khôn.13 Về phần
chúng tôi, chúng tôi sẽ không tự hào quá giới hạn. Trái
lại, niềm tự hào của chúng tôi giới hạn
trong phạm vi Thiên Chúa đă quy định cho chúng tôi, khi
đưa chúng tôi đến với anh em.14 V́ anh em
ở trong phạm vi đó, nên chúng tôi không vượt quá giới
hạn khi đến với anh em. Thật thế, chúng tôi
đă đến với anh em trước, mang theo Tin Mừng
của Đức Ki-tô,15 chứ
không cướp công của người khác mà tự hào quá
giới hạn. Nhưng chúng tôi hy vọng rằng: một
khi đức tin của anh em lớn mạnh, công việc của
chúng tôi ngày càng phát triển nơi anh em trong phạm vi
đă quy định cho chúng tôi,16
th́ chúng tôi có thể đem Tin Mừng xa hơn nữa, mà
không tự hào về những thành tựu thuộc phạm
vi người khác.17 Nhưng ai tự hào th́ hăy tự
hào trong Chúa!18 Người được chấp
nhận không phải là kẻ tự cao tự đại,
nhưng là người được Chúa đề cao.
11. 1 Phải chi anh em
chịu đựng được một chút điên rồ
của tôi! Mà hẳn anh em chịu đựng được
tôi.2 Thật thế, v́ anh em, tôi ghen cái ghen của
Thiên Chúa, bởi tôi đă đính hôn anh em với một
người độc nhất là Đức Ki-tô, để
tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ
thanh khiết.3 Nhưng tôi sợ rằng như
xưa con rắn đă dùng mưu chước mà lừa dối
bà E-và thế nào, th́ nay trí ḷng anh em cũng dần dần
đâm ra hư hỏng, mất sự đơn sơ đối
với Đức Ki-tô như vậy.4 Quả thật,
nếu có ai đến rao giảng một Đức Giê-su
khác với Đức Giê-su mà chúng tôi rao giảng, hay nếu
anh em lănh nhận một Thần Khí nào khác với Thần
Khí anh em đă lănh nhận, hoặc nếu anh em lănh nhận
một Tin Mừng nào khác với Tin Mừng anh em đă
đón nhận, th́ anh em sẵn ḷng chịu đựng
được ngay.5 Tôi nghĩ rằng tôi chẳng
có thua ǵ các Tông Đồ siêu đẳng kia.6 Giả
như tôi có thua kém về khoa ăn nói, th́ về sự hiểu
biết, tôi chẳng thua kém đâu! Trong mọi dịp và
trước mặt mọi người, chúng tôi đă tỏ
cho anh em thấy điều đó rồi.
7 Phải chăng
tôi có lỗi, v́ đă hạ ḿnh xuống để tôn anh em
lên, khi rao giảng không công cho anh em Tin Mừng của Thiên
Chúa?8 Tôi đă bóc lột các Hội Thánh khác, ăn
lương của họ, để phục vụ anh em.9
Hồi ở giữa anh em, những khi lâm cảnh túng thiếu,
tôi đă chẳng phiền luỵ ai, bởi v́ các anh em từ
Ma-kê-đô-ni-a đến đă cung cấp đầy đủ
những ǵ tôi cần. Trong mọi dịp, tôi đă tránh
không trở nên gánh nặng cho anh em, và tôi cũng sẽ c̣n
tránh như vậy.10 Nhân danh chân lư của Đức
Ki-tô ở trong tôi, tôi xin nói với anh em rằng: chẳng
ai cấm được tôi có niềm vinh dự đó trong
các miền xứ A-khai-a.11 Tại sao thế? Có phải
v́ tôi không yêu mến anh em chăng? Có Thiên Chúa biết!
12 Điều tôi
làm, tôi sẽ tiếp tục làm, để những kẻ
muốn có cơ hội tự phụ là những người
ngang hàng với chúng tôi, không c̣n cơ hội đó nữa.13
V́ những kẻ đó là tông đồ giả, là thợ
gian xảo, đội lốt tông đồ của Đức
Ki-tô.14 Lạ ǵ đâu! V́ chính Xa-tan cũng đội
lốt thiên thần sáng láng!15 Vậy có ǵ là khác
thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt
người phục vụ sự công chính. Chung cục,
chúng sẽ lănh nhận hậu quả công việc chúng
đă làm.16 Tôi xin nói lại: đừng ai tưởng
là tôi điên. Mà có ai tưởng như thế, th́ cứ nhận
tôi là điên, để tôi cũng được tự hào
đôi chút.17 Điều tôi đang nói, tôi không nói
theo tinh thần của Chúa, nhưng nói như một người
điên, bởi tin chắc rằng ḿnh có lư để tự
hào.18 V́ có lắm kẻ tự hào theo tính xác thịt,
th́ tôi đây, tôi cũng tự hào.19 Vốn là
người khôn, anh em lại sẵn ḷng chịu đựng
kẻ điên!20 Phải rồi, anh em đành chịu
người ta áp chế, cấu xé, tước đoạt,
đối xử ngạo ngược và tát vào mặt!21
Tôi nói thế, thật là nhục nhă, như thể chúng tôi
đă tỏ ra nhu nhược. ..
22 Họ là người
Híp-ri ư? Tôi cũng vậy! Họ là người Ít-ra-en
ư? Tôi cũng vậy! Họ là ḍng giống Áp-ra-ham ư?
Tôi cũng vậy!23 Họ là người phục vụ
Đức Ki-tô ư? Tôi nói như người điên: tôi
c̣n hơn họ nữa! Hơn nhiều v́ công khó, hơn nhiều
v́ ở tù, hơn gấp bội v́ chịu đ̣n, bao lần
suưt chết.24 Năm lần tôi bị người
Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một;25
ba lần bị đánh đ̣n; một lần bị ném
đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một
ngày lênh đênh giữa biển khơi!26 Tôi c̣n
hơn họ, v́ phải thực hiện nhiều cuộc
hành tŕnh, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm
cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm v́ dân
ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài
biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là
anh em.27 Tôi c̣n phải vất vả mệt nhọc,
thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn
ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng.28
Không kể các điều khác, c̣n có nỗi ray rứt hằng
ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội
Thánh!29 Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm
thấy ḿnh yếu đuối? Có ai vấp ngă mà tôi lại
không cảm thấy ḷng sôi lên?
30 Nếu phải
tự hào, th́ tôi sẽ tự hào về những yếu
đuối của tôi.31 Thiên Chúa, Đấng
đáng chúc tụng muôn đời, là Cha của Chúa Giê-su, biết
rằng tôi không nói dối.32 Tại Đa-mát, tổng
đốc của vua A-rê-ta đă cho lính canh gác thành để
bắt tôi.33 Nhưng người ta đă cho tôi vào
một cái thúng, rồi tḥng qua cửa sổ dọc theo
tường thành. Thế là tôi thoát khỏi tay ông ta.
12. 1 Phải tự
hào ư? Nào có ích ǵ! Dù thế, tôi cũng xin nói về những
thị kiến và mặc khải Chúa đă ban cho tôi.2
Tôi biết có một người môn đệ Đức
Ki-tô, trước đây mười bốn năm đă
được nhắc lên tới tầng trời thứ
ba -có ở trong thân xác hay không, tôi không biết, có ở ngoài
thân xác hay không, tôi cũng không biết, chỉ có Thiên Chúa biết.3
Tôi biết rằng người ấy đă được
nhắc lên tận thiên đàng -trong thân xác hay ngoài thân xác,
tôi không biết, chỉ có Thiên Chúa biết-,4 và
người ấy đă được nghe những lời
khôn tả mà loài người không được phép nói lại.5
Về một người như thế, tôi sẽ tự
hào; c̣n về bản thân tôi, tôi chỉ tự hào về những
yếu đuối của tôi.6 Quả vậy, nếu
muốn tự hào, th́ tôi cũng không phải là người
điên, v́ tôi nói sự thật. Nhưng tôi không làm thế,
kẻo người ta đánh giá tôi quá cao, so với điều
họ thấy nơi tôi hoặc nghe tôi nói.
7 Và để tôi
khỏi tự cao tự đại v́ những mặc khải
phi thường tôi đă nhận được, thân xác tôi
như đă bị một cái dằm đâm vào, một thủ
hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt
tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại.8
Đă ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này.9
Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của
Thầy đă đủ cho anh, v́ sức mạnh của Thầy
được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu
đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào v́
những yếu đuối của tôi, để sức mạnh
của Đức Ki-tô ở măi trong tôi.10 V́ vậy,
tôi cảm thấy vui sướng khi ḿnh yếu đuối,
khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt
nghèo v́ Đức Ki-tô. V́ khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.
11 Tôi điên rồi!
Chính anh em đă khiến tôi hoá ra như thế. Đáng lẽ
anh em phải khen tôi, v́ mặc dầu tôi chẳng là ǵ, tôi
đâu có thua kém các Tông Đồ siêu đẳng kia.12
Anh em đă thấy thực hiện nơi anh em những dấu
chỉ của sứ vụ Tông Đồ: nào là đức
kiên nhẫn hoàn hảo, nào là những dấu lạ điềm
thiêng, nào là các phép lạ.13 Anh em có thua ǵ các Hội
Thánh khác? Có chăng, chỉ thua ở chỗ bản thân tôi
đă không phiền luỵ anh em! Xin anh em tha cho tôi sự bất
công đó.14 Đây tôi sẵn sàng đến thăm
anh em lần thứ ba. Tôi cũng sẽ không phiền luỵ
anh em đâu, bởi v́ điều tôi t́m kiếm không phải
là của cải của anh em, mà là chính anh em. Thật vậy,
không phải con cái có nhiệm vụ thu tích của cải
cho cha mẹ, mà là cha mẹ phải thu tích của cải
cho con cái.15 Phần tôi, tôi rất vui ḷng tiêu phí tiền
của, và tiêu phí cả sức lực lẫn con người
của tôi v́ linh hồn anh em. Phải chăng v́ yêu mến
anh em nhiều hơn mà tôi được yêu mến ít
hơn?
16 Thế cũng
được! Tôi đă không trở nên gánh nặng cho anh
em; nhưng vốn là người xảo quyệt, tôi đă
dùng mưu mà lừa gạt anh em.17 Phải chăng
trong số những kẻ tôi sai đến, tôi đă dùng
người nào đó để bóc lột anh em?18 Tôi đă xin anh Ti-tô đi, và đă
cử người anh em kia cùng đi với anh. Phải
chăng anh Ti-tô đă bóc lột anh em? Chúng tôi đă không sống
theo cùng một tinh thần, cùng một đường lối
sao?
19 Đă từ lâu,
anh em tưởng rằng chúng tôi tự biện hộ
trước mặt anh em. Thật ra tôi nói là nói trước
mặt Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô. Và thưa anh em thân mến,
chúng tôi nói tất cả những điều ấy cốt
để xây dựng anh em.20 Quả vậy, tôi sợ
rằng khi đến, tôi không thấy anh em được
như ư tôi, và anh em thấy tôi không được như ư
anh em. Chớ ǵ giữa anh em đừng có chia rẽ, ghen
tương, oán ghét, cạnh tranh, vu khống, nói hành, kiêu
căng, hỗn loạn.21 Tôi sợ rằng lần
sau đến thăm anh em, Thiên Chúa của tôi lại để
tôi phải nhục v́ anh em, và tôi phải than khóc nhiều
người trước đây đă phạm tội, mà nay
chẳng chịu ăn năn hối cải về những
việc ô uế, gian dâm và phóng đăng họ đă làm.
13. 1
Đây sẽ là lần thứ ba tôi đến thăm anh
em. Mọi công việc phải được giải quyết
nhờ có ba mặt một lời.2 Tôi đă nói với
những kẻ trước đây đă phạm tội và
mọi người khác, và hôm nay khi vắng mặt, tôi
cũng xin nói lại như đă nói khi có mặt lần thứ
hai, là: nếu đến lần nữa, tôi sẽ không
nương tay,3 bởi v́ anh em
muốn có một bằng chứng cho thấy Đức
Ki-tô nói trong tôi. Người không nhu nhược đối
với anh em đâu, nhưng Người đầy uy quyền
giữa anh em.4 Thật vậy, Người đă
chịu đóng đinh v́ mang thân phận yếu hèn,
nhưng nay Người đang sống nhờ quyền
năng của Thiên Chúa. Cả chúng tôi nữa, trong Đức
Ki-tô, chúng tôi cũng mang thân phận yếu hèn, nhưng cùng
với Người, chúng tôi sống nhờ quyền
năng của Thiên Chúa để xử sự với anh
em.
5 Anh em hăy tự xét xem ḿnh có c̣n sống
trong đức tin hay không.
Hăy tự kiểm điểm. Anh em chẳng nhận thấy là có Đức
Giê-su Ki-tô ở trong anh em sao? Trừ phi anh em đă thua
trong cuộc kiểm điểm này.6 Tôi hy vọng
rằng anh em sẽ nhận thấy là chúng tôi đây không bị
thua.7 Chúng tôi cầu xin Thiên Chúa cho anh em đừng
làm điều ǵ trái, không phải để tỏ ra chúng
tôi thắng, nhưng để anh em làm điều thiện,
cho dù chúng tôi như bị thua.8 V́ chúng tôi không thể
làm ǵ chống lại sự thật, nhưng chúng tôi chỉ
có thể hoạt động cho sự thật.9 Quả
thế, chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu mà anh em lại
mạnh. Điều chúng tôi cầu xin là anh em được
nên hoàn thiện.10 V́ vậy, khi vắng mặt, tôi
viết các điều này, để lúc có mặt, tôi khỏi
phải xử nghiêm khắc, theo quyền hành Chúa đă ban
cho tôi để xây dựng, chứ không phải để
phá đổ.
11 Ngoài ra, thưa anh em, anh em hăy vui mừng
và gắng nên hoàn thiện.
Hăy khuyến khích nhau, hăy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như
vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và b́nh an, sẽ ở
cùng anh em.
12 Anh em hăy hôn chào nhau cách thánh thiện.
Mọi người thuộc dân thánh ở
đây gửi lời chào anh em.
13 Cầu chúc toàn thể anh em được đầy
tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy t́nh
thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của
Thánh Thần. A-men.