Nhân chứng Mễ-du: Mauro
Harsch, Nghệ sĩ - Trở lại - Ḷng nhân đạo
Mauro Harsch sinh tại
Lugano (Thuỵ sĩ) và hoàn thành chương tŕnh âm nhạc
tai học viện “Benedetto Marcello”
bên
Một cuộc mạo hiểm đă
biến đổi đời tôi
Vào mùa hè 1984, tôi
đang có cuộc nghỉ hè dài tại một làng núi
nhỏ bên Thuỵ sĩ. Tôi tới đó để bắt
đầu một cuộc mạo hiểm, vài tháng sau, nó biến
đổi cuộc đời tôi.
Vào kỳ đó, Tôi
chỉ là một tín hữu nửa vời và không tin
tưởng mấy vào Giáo hội. Tôi đang đi t́m
một cài gí đó mà nó có thể cho tôi nhiều ư nghĩa
của cuộc sống, cái ǵ đó mà tôi chưa có thể
t́m thấy. Tôi thường tự hỏi điều ǵ
mới thực sự có đầy đủ ư nghĩa
của sự hiện hữu của con người, và tôi
biết rằng trong tự thâm tâm, thú vui âm nhạc của
tôi, một đam mê từ hồi thơ ấu, chỉ là
cái ǵ nhất thời. Đă từ lâu tôi đă thực hành chiêm
niệm và học hỏi những triết lư hiện hành
khác nhau, nhưng sự thoả măn tôi t́m thấy đều
là hăo huyền.
Trong khi đọc
một tạp chí Ư, một tít lạ đă đập vào
mắt tôi: “Đức Mẹ đang hiện ra… sáu em nói đă
thấy, mỗi ngày, một người Phu-Nữ huyền bí đă cho những thông
điệp của t́nh yêu, b́nh an, và cải hoán… hàng ngàn
những kẻ tin, nhiều người đuợc lành
bệnh, vô số đă hoán cải!...” Tôi không có thể tin
nổi vào thời đại tân tiến của chúng ta
lại thực sự có chỗ để loan những
loại tin này sao.
Vài ngày sau đó, tôi
đă có một giấc mơ lạ lùng, ư nghĩa của
nó thoát khỏi tôi sau một quăng thời gian … Trên một
quả đồi lớn tôi đă thấy một cầu
vồng rất sáng, luồng sáng của nó mang lại cho tôi
một cảm giác chân phúc tuyệt vời. Đột nhiên
thị kiến này ngừng lại và có một sức mạnh
đẩy tôi quỳ gối xuống, tạo cho thân xác tôi
đau nhói. Tôi thức giấc
và không biết cơn đau này từ đâu ra, v́ nó chỉ
là một giấc mơ. Lạ quá, đầu gối tôi
đang bị nhức nhối, mặc dù tôi không bị ngă.
Đây là một trong những dấu hiệu đầu mà nó
đă làm tôi tin rằng Thiên Chúa, trong một thời
điểm, có thể đánh động trái tim chúng ta và
ban cho một sự lựa chọn để theo Ngài hay
bỏ Ngài.
Từ ngày đó trở đi, tôi
luôn nghĩ tới sáu em thị nhân tại Mễ-du, và tôi
bắt đầu bị thúc đẩy tới cuộc
thăm viếng ngôi làng bên Herzegovina (Nam Tư cũ). Với tôi, đây là một h́nh
thức của tiếng goi nào đó.
Vào cuối tháng 11
của cùng năm, trong một tiêm sách tại Como, tôi t́m
thấy một cuốn sách của nhà thần học Pháp,
Réne Laurentin, tựa đề “Đức Trinh Nữ có hiện
ra tại Mễ-du không?”, Tôi liền quyết đinh đi
Mễ-du. Tôi nhất quyết đi thăm nơi đó.
Thời gian như thể ngừng trôi
Cùng với một
người bạn yêu nhạc, tôi đă tới Mễ-du ngày 19/2/1985. Một công
trướng lớn phía trước nhà thờ hoàn toàn trống
không. Nhiệt độ giá lạnh và gió thổi rít. Tôi
nghĩ là đă tới lộn xứ đạo. Khi chúng tôi
vào bên trong nhà thờ, cũng rất là lạnh. Chẳng có
khách hành hương nào ngoại trừ vài cư dân đang
lần hạt Mân côi to tiếng.
Sau bao nhiêu năm không
quỳ trước nhà tạm, tôi quỳ xuống… và
cảm thấy bên trong tôi một niềm vui khôn tả, kép
dài tới ngày nay, tôi không có ngôn từ nào để diễn
tả nổi. Tôi đă nhớ lai giấc mơ. Tôi
tự hoà ḿnh với lời
kinh Kính mừng Maria và những tiếng thánh ca… tất
cả tuôn chảy như ḍng nước trong vắt từ
một ḍng suối tinh ṛng.
Những nghi thức
phụng vụ này, bằng tiếng Croatian, dài hơn hai
tiếng đồng hồ, nhưng tôi không biết thời
gian đă trôi qua. Thời gian dường như
đứng lại. Đó là bắt đầu cuộc hối
cải của tôi. Tôi bắt đầu tin rằng trong nhà
tạm, mà tôi đă lăng quên từ lâu, trong bí tích Thánh
Thể, là nguồn mọi ân sủng, tất cả
điều công chính và thánh thiện đều
được t́m thấy nơi đây.
Sau thánh lễ, chúng tôi
vào pḥng áo và gặp cô Marija, môt trong những thị nhân.
Một tu sĩ anh em hèn mọn nhă nhặn mời chúng tôi
tới nhà xứ ngày hôm sau. Vừa khi nhận ra chúng tôi là
ca nhạc sĩ, vị tu sĩ đă mời chúng tôi giúp
thánh nhạc trong thời gian Mẹ hiện ra lúc 5:45
chiều hôm đó.
.
Vào quăng trưa chúng tôi leo lên
đồi hiện ra. Một cơn gió lớn thổi
mạnh. Đường lên th́ gồ ghề và cây cối
ngổn ngang, nên leo lên rất là đau đớn. Những
viên đá dường như biểu tượng hoá
những thử thách và khó khăn mà chúng tôi gặp phải
trong cuộc sống. Tôi cảm thấy một sự
đầy an b́nh bên trong. Từ
chỗ Mẹ hiện ra chúng tôi đă chiêm ngắm
thấy cảnh đẹp của toàn vùng Mễ-du. Nó
giống như thời gian đang trở lại. Mọi
sự quá đơn thuần và yên tĩnh, một cánh
đồng xanh mát của sự an b́nh.
Lần đầu tiên trong đời tôi
hiểu thế nào là cầu nguyện với con tim
Trong một buổi
trưa, tôi tới nhà thờ để tập dượt
bài hát Ave Maria của nhạc sĩ Schubert mà chúng tôi chọn
để hát vào những dịp lễ lớn. Một
vị tu sĩ ḍng Phan-sinh cho hay: “điện bị cúp hôm
nay.”.. nên không có thể xài
đan phong cầm được. Tuy vậy, điện
sẽ co thể có lại trong chốc lát. Buổi lần
chuỗi mân côi đă bắt đầu, nhưng
điện vẫn chưa có. Chúng tôi tiếp tục
việc cầu nguyện trong nhà thờ. Thật là vui
mừng, chỉ nửa giờ sau đó và khônc có một báo
hiệu ǵ trước, điện đă có trở lại.
Lúc 5:45 chiều, khi Jacob, Ivan và Marija đang thị kiến
Me, đàn phong cầm tấu
khúc Ave Maria như đă dự định. Tôi không hiểu
chuyện ǵ đă xảy ra với tôi vào thời gian đó.
Tôi cảm nhận rằng đây là lần đầu tiên
tôi hiểu rơ ư nghĩa của việc cầu nguyện
với cả con tim … và tôi đă được ngập
tràn cảm súc của sự tự do.
Sau khúc kết của
bài Ave Maria, một đám trẻ của xứ đạo
đă vây quanh tôi và họ đang cầu nguyện một
cách sốt sắng, một cảnh tượng mà sau này tôi
mới hiểu được.
Trở lại Thuỵ-sĩ, tôi
suy gẫm nhiều hơn về những ǵ đă xảy
đến cho tôi, đặc
biệt là tại sao lại ở Mễ-du? Tại sao tôi
lại phải đi tới một làng nhỏ nghèo nàn
tại một nước công sản để khám phá ra
những giá trị thẳm sâu đó? Tai sao tôi có thể
huởng nếm được tinh thần Kitô giáo mọi
chỗ ở Mễ-du? Tôi thiết nghĩ đó chỉ là
tiếng đánh động thoáng qua của thần linh
Chúa, một nhóm lửa chóng tàn, và những sinh hoạt b́nh
thường sẽ trở lại trong vài tuần lễ
thôi. Nhưng nó đă không phải như tôi nghĩ. Mặc dù tôi không nói
với bất cứ ai về những ǵ xảy
đến cho tôi, các bạn bè và người thân thuộc
đă thấy sự đổi mới nơi chính tôi và
nơi con người nhạc sĩ nữ. Ngày tháng cứ
dần trôi qua. Chỉ trong vài tháng sau đó một cái ǵ
đó đă được nảy sinh trong đời
sống thiêng liêng và ca nhạc của tôi, điều ǵ
đó làm tôi khác hẳn với những năm trước
đó. Ngoại diện chẳng có chi thay đổi,
nhưng đời sống nội tâm hoàn toàn thay
đổi. Chưa bao giờ truớc đó tôi có cảm nhận chắc
chắn như bây giờ rằng đức tin là một
nguồn sức mạnh phải được chiếu
dăi và chúng ta đ̣i buộc phải chiếu dăi nó và chia
sẻ nó với mọi người chung quanh ta.
Tôi quyết định để
bắt đầu làm một cái ǵ mới lạ
Tôi đă trở
lại Mễ-du vào tháng 12 năm đó, và lần nữa vào
mùa hè 1986. Những t́nh bạn thâm t́nh đă nảy nỡ
giữa tôi và cha Slavko Barbavic
Vào tháng 3/1987, cha Slavko
đă mời tôi tham dự một buổi hiện ra bên
trong nhà xứ. Tôi coi đây là một ân huệ đặc
biệt cho tôi, môt món quà không mong đợi. Đây chỉ là
một căn pḥng nhỏ bé, nó chỉ vừa đủ
chỗ cho vài người thôi. Jacob tới đó như giờ đă đươc
hẹn trước.
Anh ta quỳ xuống.
Cuộc gặp gỡ với “Bà” liền bắt
đầu. Mắt anh ta rạng ngời. Cặp môi mấp
máy nhưng không ai nghe được anh nói ǵ. Chú bé này trong
trang thái ngoài không gian và thời gian của chúng ta vừa khi
em ra khỏi cái thế giới bên ngoài. Mọi sư
rất là tự nhiên và đơn thuần. Mọi
người đều tuyệt đối đứng
nguyên tại chỗ. Sự
trầm lặng ngoại thường. Thật vậy nó
như thể thời gian cũng đứng lặng yên.
Sau một vài phút, Jacob trở lại trạng thái b́nh
thường. Cuộc hiện ra chấm dứt.
Không ngôn từ nào có
thể diễn tả được biến cố siêu
nhiên này. Tôi chỉ có thể kết luận rằng trong
thời gian đó tôi tin rằng Mễ-du thực sự là một món quà của Chúa ban cho
Giáo hội và nhân loại nói chung. Cũng ngày đó tôi tin cho
cha Slavko rằng những cảm nghiệm của tôi
tại Mê-du đă thúc đẩy
tôi vào những công việc từ thiện, nhất là
với các em thiếu nhi. “Đừng lo lắng” cha Slavko nói,
“khi thời điểm tới, Đức Mẹ sẽ
chỉ cho anh một con đường để đi”.
Những tháng sau đó tôi đă liên
hệ với nhiều tổ chức nhân đạo,
nhưng tôi cảm thấy họ hướng chiều
nhiều về chính trị và chỉ có trên lư thuyết, mà
tôi không thấy hợp cho lắm. Tôi ước muốn có
một tổ chức không những chỉ cung cấp
vật chất mà c̣n nâng
đỡ về mặt luân lư và tinh thần trong chiều hướng
của Kitô giáo thực sự mà chính tôi đă chứng
kiến tại Mễ-du. V́ thế tôi quyết đinh
lập môt hội mới. Ngày 31/12/1987, tôi đă lập
hội “Thiếu Nhi Mễ-du”. Hai tháng sau, hội chính
thức được công nhận bởi chính quyền
Thuỵ-sĩ.
Những công tŕnh mới
Trong ṿng một
năm, con số mạnh thường quân của hội
“Thiếu Nhi Mễ-du” đă
lên tới 600 người. Để thông tin rộng răi về hội,
tôi đă mời nhiều nghệ sĩ và cao nhân từ
mọi tấng lớp văn hoá cũng như tôn giáo vào ban điều hành
hội. Với sự giúp đỡ của họ, chúng tôi
đă tổ chức nhiều cuộc tŕnh diễn nhạc
để quyên góp tiền bên Lugano.
Một đai gia đ́nh đă thành h́nh để
đi cùng một hướng trong sự hợp nhất,
một cách liên đới hướng về các em thiếu
nhi đang cần sự giúp đỡ.
Công tác đầu tiên
là xây một căn nhà cho các em nhỏ tại
Ấn-độ (1989). Sau đó là xây nhà bên Ba-tây(1992), làm nhà
“Ngôi Làng Me”ï ở Mễ-du (1995), và những công tŕnh khác
tại Lỗ-ma-ni, Madagascar, Ba-lan, Kosovo, Nga, và Ukraine.
Để đáp lại
lời mời gọi của cha Slavko Barbavic, ngoài “Ngôi Làng
Mẹ” ở Mễ-du, cha
cũng mong muốn xoa dịu bớt những hậu
quả của chiến tranh bên Croatia and Bosnia-Herzegovina, v́ thế hội đă kiến
thiết nhà “Germogli”. Công việc bắt đầu vào
đầu năm 1995. Những đội quân của
Bảo An Liên Hiệp Quốc có mặt tại Mễ-du đăø t́nh nguyện giúp đào
nền móng cho căn nhà này. Ngày 27/6/1995, ngôi nhà này và 3 căn khác
được sự đóng góp của các mạnh
thường quân đă chính chức khánh thành. Hội
vẫn tiếp tục giúp đỡ những hoạt
động của “Ngôi Làng Mẹ” cũng như những
công tŕnh khác của cha Jozo Zovko tại Siroki Brijeg.
Đức Trinh Nữ đă cho tôi một
dấu chỉ
Ngày tháng trôi qua, tôi
đă cảm nghiệm những giây phút vui sướng và
những thời gian khó khăn, nhưng niềm tin mà tôi
đă khám phá ra tại Mễ-du chưa bao giờ phai nhạt.
Nhưng vào năm 1998, tôi đă phải đương
đầu với nhiều những hoài nghi về những
cảm nghiệm tại Mễ-du lần đầu tiên
trong đời. Tôi bị cám
dô ơ để suy luận mọi sự này chỉ là
những điều ảo tưởng. Nhưng hai
việc ngoài ư muốn đă xảy ra để chấn an
tôi nên tiếp tục những ǵ đang làm.
Tôi gặp Đức Thánh
Cha (ĐTC) Gioan Phaolo II vào hai dịp khác nhau. Vào ngày 25/2/1998,
(ngày Mẹ hiện ra tại Mễ-du và ban thông
điệp) tôi được phép giúp lễ trong một
thánh lễ tại tư pḥng ĐTC, và tôi gặp ĐTC lần
nữa vào ngày 20/2/1999 (ngày kỷ niệmtrở lại
của tôi tại Mễ-du). Ngẫu nhiên chăng? Tôi đâu
có chọn những ngày này đâu. Một cách đơn
giản là không có cách chi tôi có thể chọn những ngày
này được. Với tôi, đây là hai ngày trọng
đại. Thêm vào những chuyện này, nó xảy ra khi tôi
trên đường về nhà sau cuộc gặp ĐTC lần
thứ hai, tôi lắng nghe bài dậy giáo lư của cha Livio
Fanzaga trong chương tŕnh phát thanh Maria. Nói về các
cuộc hiện ra tai Fatima và Mễ-du, ngài nhần mạnh
rằng: “Đức Trinh Nữ thường ban cho chúng ta
một xác quyết qua những con số, qua những ngày tháng
đặc biệt!”…
Tôi đă nhận đuợc sự xác
quyết này.
Hồng-Việt dich thuật
từ http://www.medjugorje.org