Địa vị cao trọng của Con
Thiên Chúa làm người
1. 1
Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đă
phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ;2
nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đă phán dạy
chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đă nhờ Người mà dựng
nên vũ trụ, đă đặt Người làm Đấng
thừa hưởng muôn vật muôn loài.3 Người
là phản ánh vẻ huy hoàng, là h́nh ảnh trung thực của
bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng
dùng lời quyền năng của ḿnh mà duy tŕ vạn vật.
Sau khi đă tẩy trừ tội lỗi, Người lên
ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời.4
Danh hiệu Người được thừa hưởng,
cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, th́
Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu.
5 Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đă phán cùng vị
thiên thần nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đă sinh
ra Con hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người
sẽ là Con Ta.6 Khi đưa Trưởng Tử
vào thế giới loài người, Thiên Chúa lại nói: Mọi
thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.7
Về các thiên thần, th́ có lời chép: Người làm cho
thiên thần của Người nên những luồng gió, và
thuộc hạ của Người thành những ngọn lửa.8
Nhưng về Người Con, th́ Kinh Thánh lại nói: Lạy
Thiên Chúa, ngôi báu Ngài sẽ trường tồn vạn kỷ!
Vương trượng Ngài, vương
trượng công minh.9 Ngài ưa điều chính trực,
ghét điều gian ác. Chính v́ vậy, Thiên Chúa là Thiên
Chúa của Ngài đă tôn phong Ngài vượt trổi các
đồng liêu, mà xức cho dầu thơm hoan lạc.10
Và có lời khác: Lạy Chúa, lúc khởi đầu, Chúa
đă đặt nền trái đất, chính tay Ngài tạo
tác ṿm trời.11 Chúng tiêu tan, Chúa vẫn c̣n hoài; chúng
đều sẽ cũ đi như chiếc áo.12
Chúa sẽ cuốn chúng lại như cuốn áo choàng, chúng sẽ
bị thay như người ta thay áo. Nhưng chính Chúa vẫn
tiền hậu y nguyên, và năm tháng của Ngài sẽ không
chấm dứt.13 Và có bao giờ Thiên Chúa đă phán
với một thiên thần nào rằng: Bên hữu Cha
đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch
thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con?14 Nào tất cả các vị đó
không phải là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ
Chúa, được sai đi phục vụ để
mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa
hưởng ơn cứu độ sao?
2. 1
V́ thế, chúng ta càng phải chú tâm hơn nữa vào những
lời đă nghe, kẻo bị cuốn trôi đi mất.2
Quả vậy, nếu lời được các thiên thần
loan báo đă có hiệu lực, và nếu mọi vi phạm
cũng như bất tuân đều bị phạt đích
đáng,3 th́ làm sao chúng ta thoát khỏi,
nếu chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ
cao quư như thế? Ơn cứu độ đó, đầu
tiên đă được Chúa rao giảng, rồi được
những kẻ nghe cho chúng ta thấy là có hiệu lực,4 đồng thời được
Thiên Chúa chứng thực bằng những dấu lạ
điềm thiêng, bằng nhiều quyền năng khác nhau
và bằng các ân huệ của Thánh Thần mà Người
phân phát tuỳ ư muốn của Người.
5 Thật vậy, Thiên Chúa đă không trao cho các thiên thần
quyền làm chủ thế giới tương lai, thế
giới mà chúng ta đang nói đến.6 Nhưng
trong một đoạn Kinh Thánh kia, có
người đă làm chứng rằng: Phàm nhân là chi mà Chúa cần
nhớ đến? Con người là ǵ mà Chúa phải
thăm nom?7 Chúa đă làm cho con người thua kém
các thiên thần trong một thời gian ngắn, ban vinh
quang, danh dự làm mũ triều thiên,8 đặt
muôn loài, muôn sự dưới chân con người, bắt
chúng phải phục quyền con người. Khi bắt muôn loài muôn sự phải phục quyền
con người, Thiên Chúa không để cho một sự ǵ
không phục quyền con người. Thật ra, hiện
nay chúng ta chưa thấy muôn loài muôn sự phục quyền
con người.9 Nhưng con người đă bị
thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, th́
chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang
danh dự làm mũ triều thiên, bởi v́ đă cam chịu
tử h́nh. Con người đó, chính là Đức Giê-su. Thật vậy, Đức Giê-su đă phải nếm
sự chết, là để cho mọi người
được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa.
10 Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc
và cùng đích mọi loài, chính v́ muốn đưa muôn vàn
con cái đến vinh quang, nên Người đă làm một
việc thích đáng, là cho Đức Giê-su trải qua gian khổ
mà trở thành vị lănh đạo thập toàn, dẫn
đưa họ tới nguồn ơn cứu độ.11
Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giê-su, và những
ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc.
V́ thế, Người đă không hổ thẹn gọi họ
là anh em,12 khi nói: Con nguyện sẽ
loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được
hay, và trong đại hội Dân Ngài, con xin dâng tiến một
bài tán dương.
13 Người lại nói: Phần tôi,
tôi sẽ tin cậy Thiên Chúa. Người lại nói: Này tôi
đây, cùng với những con cái mà Thiên Chúa đă ban cho tôi.
14 Như thế, v́ con cái th́ đều chung một huyết nhục, nên Đức
Giê-su đă cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy,
nhờ cái chết của Người, Người đă
tiêu diệt tên lănh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ,15
và đă giải thoát những ai v́ sợ chết mà suốt
đời sống trong t́nh trạng nô lệ.16 V́
những kẻ được Người giúp đỡ
không phải là các thiên thần, mà là con cháu Áp-ra-ham.17
Bởi thế, Người đă phải nên giống anh em
ḿnh về mọi phương diện, để trở
thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín
trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền
tội cho dân.18 V́ bản thân Người đă trải
qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu
giúp những ai bị thử thách.
3. 1
Do đó, thưa anh em là những người trong dân thánh,
những người được hưởng chung
ơn gọi bởi trời, anh em hăy ngắm nh́n Đức
Giê-su là Sứ Giả, là Thượng Tế, là Trung Gian cho
chúng ta tuyên xưng đức tin.2 Người trung
thành với Đấng đă đặt Người lên chức
vụ đó, cũng như ông Mô-sê đă trung thành khi thi hành
chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa.3
Như người làm nhà đáng tôn vinh hơn chính ngôi nhà,
th́ Đức Giê-su cũng được coi là đáng tôn
vinh hơn ông Mô-sê.4 Quả thật, nhà nào cũng phải
có người làm ra, và Đấng làm ra mọi sự là
Thiên Chúa.5 Ông Mô-sê đă trung thành khi thi hành chức vụ
đối với toàn thể nhà Thiên Chúa, với tư cách
là tôi tớ để làm chứng về các điều
Thiên Chúa sẽ phán truyền.6 C̣n Đức Ki-tô th́
trung thành với tư cách là người Con đứng
đầu nhà Thiên Chúa. Mà nhà Thiên Chúa là chính chúng ta, miễn
là chúng ta giữ vững đến cùng ḷng tin tưởng
và thái độ hiên ngang về niềm hy vọng của
chúng ta.
7 V́ thế, như lời Thánh Thần phán: Ngày hôm nay,
nếu các ngươi nghe tiếng Chúa,8
th́ chớ cứng ḷng như hồi chúng nổi loạn,
như ngày chúng thử thách Ta trong sa mạc,9 nơi
cha ông các ngươi đă từng ḍ xét mà thử thách Ta và
đă thấy các việc Ta làm10 suốt bốn
mươi năm. V́ thế, Ta đă nổi giận với
ḍng giống này, Ta đă nói: Tâm hồn chúng cứ lầm lạc
măi, chúng nào biết đến đường lối của
Ta.11 Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng:
chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của
Ta!12 Thưa anh em, hăy đề pḥng, đừng
để người nào trong anh em có ḷng dạ xấu xa
chối bỏ đức tin mà ĺa xa Thiên Chúa hằng sống.13
Trái lại, ngày ngày anh em hăy khuyên bảo nhau bao lâu c̣n
được gọi là ngày hôm nay, kẻo có ai trong anh em ra
cứng ḷng v́ bị tội lỗi lừa gạt.14
Quả thế, chúng ta đă được thông phần
Đức Ki-tô, miễn là chúng ta cứ giữ vững cho
đến cùng căn bản của ḷng tin đă có từ
ban đầu.15 Trong câu: Ngày hôm nay, nếu các
ngươi nghe tiếng Chúa, th́ chớ cứng ḷng như hồi
chúng nổi loạn,16 ai là những kẻ đă
nghe tiếng Chúa, rồi nổi loạn? Chẳng phải
là những người đă được ông Mô-sê
đưa ra khỏi Ai-cập sao?17
Thiên Chúa đă nổi giận với ai suốt bốn
mươi năm? Chẳng phải là với những
người đă phạm tội và đă ngă gục, bỏ
xác trong sa mạc sao?18 Nhưng
Người thề với ai: Sẽ không được
vào chốn yên nghỉ của Người, nếu không phải
là với những kẻ bất tuân?19 Và chúng ta thấy
rằng họ đă không thể vào được đó, bởi
v́ họ chối bỏ đức tin.
4. 1
Vậy chúng ta phải sợ rằng trong khi lời hứa
được vào chốn yên nghỉ của Người vẫn
c̣n đó, mà có ai trong anh em bị coi đă mất cơ hội.2
Quả thế, chúng ta đă được nghe loan báo Tin Mừng
như những người kia. Nhưng
lời họ đă nghe không sinh ích ǵ cho họ, bởi v́ những
kẻ đă nghe không lấy đức tin đáp lại lời
giảng.3 C̣n chúng ta là những người tin,
chúng ta đang vào chốn yên nghỉ đó, như lời
Thiên Chúa đă phán: Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng:
chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của
Ta. Công việc của Thiên Chúa đă hoàn thành từ tạo
thiên lập địa,4 như có chỗ Thiên Chúa
phán về ngày thứ bảy rằng: Khi đă làm xong mọi
công việc, th́ ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ.5
Trong đoạn thánh vịnh nói trên, lại cũng có lời
chép rằng: Chúng sẽ không được vào chốn yên
nghỉ của Ta.6 Vậy v́ phải có một số
người được vào chốn yên nghỉ, và v́ những
người đầu tiên được nghe loan báo Tin Mừng
đă không được vào bởi họ bất tuân,7
nên Thiên Chúa lại ấn định một ngày khác, tức
là ngày hôm nay, khi Người dùng vua Đa-vít mà phán, sau một
thời gian rất lâu dài, như đă nói ở trên: Ngày hôm
nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, th́ chớ cứng
ḷng.8 Thật vậy, nếu ông Giô-suê đă cho họ
được yên nghỉ, th́ sau đó, Thiên Chúa đă chẳng
nói đến một ngày khác nữa.9 Như thế,
Dân Thiên Chúa c̣n có thể được nghỉ như Thiên
Chúa nghỉ ngày thứ bảy,10 v́ ai đă vào chốn
yên nghỉ của Thiên Chúa, th́ cũng đă nghỉ sau khi
làm xong công việc của ḿnh, như Thiên Chúa đă nghỉ
sau khi làm xong công việc của Người.11 Vậy,
chúng ta hăy cố gắng vào chốn yên nghỉ này, kẻo
có ai cũng theo gương bất tuân đó mà sa ngă.12
Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu
và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu
chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời
đó phê phán tâm t́nh cũng như tư tưởng của
ḷng người.13 V́ không có loài thọ tạo nào mà
không hiện rơ trước Lời Chúa, nhưng tất cả
đều trần trụi và phơi bày trước mặt
Đấng có quyền đ̣i chúng ta trả lẽ.
14 Chúng ta có một vị Thượng Tế
siêu phàm đă băng qua các tầng trời, là Đức
Giê-su, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hăy giữ vững lời
tuyên xưng đức tin.15 Vị Thượng Tế
của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm
thương những nỗi yếu hèn của ta, v́ Người
đă chịu thử thách về mọi phương diện
cũng như ta, nhưng không phạm tội.16 Bởi
thế, ta hăy mạnh dạn tiến lại gần ngai
Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót
thương và lănh ơn trợ giúp mỗi khi cần.
5. 1
Quả vậy, thượng tế nào cũng là người
được chọn trong số người phàm, và
được đặt lên làm đại diện cho loài
người, trong các mối tương quan với Thiên
Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật
đền tội.2 Vị ấy có khả năng
cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ
lầm lạc, bởi v́ chính người cũng đầy
yếu đuối;3 mà v́ yếu đuối, nên
người phải dâng lễ đền tội cho dân thế
nào, th́ cũng phải dâng lễ đền tội cho chính
ḿnh như vậy.4 Không ai tự gán cho ḿnh vinh dự
ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi,
như ông A-ha-ron đă được gọi.5
Cũng vậy, không phải Đức Ki-tô đă tự tôn
ḿnh làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đă nói
với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đă sinh
ra Con,6 như lời Đấng ấy đă nói ở
một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế
theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.7 Khi c̣n sống kiếp
phàm nhân, Đức Giê-su đă lớn tiếng kêu van khóc lóc
mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền
năng cứu Người khỏi chết. Người
đă được nhậm lời, v́ có ḷng tôn kính.8
Dầu là Con Thiên Chúa, Người đă phải trải qua
nhiều đau khổ mới học được thế
nào là vâng phục;9 và khi chính bản
thân đă tới mức thập toàn, Người trở
nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất
cả những ai tùng phục Người,10 v́
Người đă được Thiên Chúa tôn xưng là
Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
11 Về vấn đề này, chúng tôi
c̣n có nhiều điều phải nói, nhưng khó mà cắt
nghĩa, v́ anh em đă trở nên uể oải không muốn
nghe.12 Quả thật, với thời gian, đáng lẽ
anh em đă phải là những bậc thầy, thế mà anh
em lại cần phải để cho người ta dạy
anh em những điều sơ đẳng về các sấm
ngôn của Thiên Chúa: thay v́ thức ăn đặc, anh em lại
phải cần dùng sữa.13 Thật vậy, phàm ai
c̣n phải dùng đến sữa, th́ không hiểu ǵ về
đạo lư liên quan đến sự công chính, v́ người
ấy vẫn là trẻ con.14 Thức ăn đặc
th́ dành cho những người đă trưởng thành, những
người nhờ thực hành mà rèn luyện được
khả năng phân biệt điều lành điều dữ.
6. 1
V́ thế, gác một bên giáo huấn sơ đẳng về
Đức Ki-tô, chúng ta hăy vươn tới tŕnh độ
giáo huấn trưởng thành mà không trở lại những
điều căn bản, là ḷng sám hối ăn năn v́
những việc đưa tới sự chết, là niềm
tin vào Thiên Chúa,2 là giáo lư về mấy loại phép rửa;
là nghi thức đặt tay, là vấn đề kẻ chết
sống lại và cuộc phán xét cuối cùng.3
Đó là điều chúng ta sắp làm, nếu Thiên Chúa cho
phép.
4 Quả thật, những kẻ đă một lần
được chiếu sáng, đă được nếm
thử ân huệ bởi trời, đă được thông
chia Thánh Thần,5 đă được thưởng
thức Lời tốt đẹp của Thiên Chúa và
được cảm nghiệm những sức mạnh của
thế giới tương lai,6 những kẻ ấy
mà sa ngă, th́ không thể được đổi mới một
lần nữa để sám hối ăn năn, v́ họ
đă tự tay đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá một
lần nữa và đă công khai sỉ nhục Người.7
Khi mảnh đất nào được thấm mưa
thường xuyên đổ xuống và sinh ra những loại
cây có ích cho người canh tác, th́ mảnh đất ấy
nhận được phúc lành của Thiên Chúa.8
Nhưng nếu chỉ sinh ra những gai cùng góc, th́ đó là
mảnh đất bỏ đi, bị nguyền rủa
đến nơi rồi, và rốt cuộc sẽ bị
đốt cháy.
9 Anh em thân mến, mặc dầu nói như thế,
chúng tôi tin chắc rằng anh em ở trong một t́nh trạng
tốt đẹp hơn và thuận lợi để được
ơn cứu độ.10 Quả thế, Thiên Chúa
không bất công đến nỗi quên việc anh em đă
làm và ḷng yêu mến anh em đă tỏ ra đối với
danh Người, khi trước đấy anh em phục vụ
các người trong dân thánh, và hiện nay vẫn c̣n đang
phục vụ.11 Nhưng chúng tôi ao ước cho mỗi
người trong anh em cũng tỏ ra nhiệt thành như
thế, để niềm hy vọng của anh em được
thực hiện đầy đủ cho đến cùng.12
Anh em đừng trở nên uể oải, nhưng hăy bắt
chước những người nhờ có đức tin
và ḷng kiên nhẫn mà được thừa hưởng các
lời hứa.
13 Quả thế, khi Thiên Chúa hứa với
ông Áp-ra-ham, Người đă không thể lấy danh ai cao
trọng hơn ḿnh mà thề, nên đă lấy chính danh ḿnh
mà thề14 rằng: Ta sẽ ban phúc dư dật
cho ngươi và sẽ làm cho ḍng dơi ngươi nên đông
vô số.15 Như thế, v́ nhẫn nại đợi
chờ, ông Áp-ra-ham đă nhận được lời hứa.16
Người ta thường lấy danh một người
cao trọng hơn ḿnh mà thề, và lời thề là một
bảo đảm chấm dứt mọi tranh chấp giữa
người ta với nhau.17 Do đó, v́ Thiên Chúa muốn
chứng minh rơ hơn cho những người thừa
hưởng lời hứa được biết về ư
định bất di bất dịch của Người,
nên Người đă dùng lời thề mà bảo đảm
điều Người đă hứa.18 Như vậy,
cả lời hứa lẫn lời thề đều bất
di bất dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể
nói dối được. Do đó, chúng ta là những kẻ
ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được mạnh mẽ
khuyến khích nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng
ta.19 Chúng ta có niềm hy vọng đó cũng tựa
như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn,
ch́m sâu vào bên trong bức màn cung thánh.20 Đó là
nơi Đức Giê-su đă vào như người tiền
phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị
Thượng Tế đời đời theo phẩm trật
Men-ki-xê-đê.
7. 1
Quả vậy, ông Men-ki-xê-đê là vua Sa-lem, là tư tế của
Thiên Chúa Tối Cao, đă đón gặp và chúc lành cho ông
Áp-ra-ham, lúc ông này đang trên đường về sau khi
đánh bại các vua.2 Ông Áp-ra-ham đă chia cho ông
Men-ki-xê-đê một phần mười chiến lợi phẩm.
Trước hết, ông tên là Men-ki-xê-đê, nghĩa là “vua
công chính”; rồi ông lại là vua Sa-lem, nghĩa là “vua b́nh an”.3 Ông không có cha, không có mẹ, không
có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu,
cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con
Thiên Chúa: măi măi ông vẫn là tư tế.
4 Anh em hăy coi xem: ông Men-ki-xê-đê cao trọng biết
bao! Ông Áp-ra-ham là tổ phụ, mà cũng đă dâng cho ông một
phần mười chiến lợi phẩm tốt nhất.5
Trong hàng con cháu ông Lê-vi, những ai lănh chức tư tế,
th́ theo Lề Luật, được lệnh thu một phần
mười hoa lợi của dân, tức là của anh em
ḿnh, mặc dù những người này cũng từ ḷng ông
Áp-ra-ham mà sinh ra.6 C̣n ông Men-ki-xê-đê, tuy không thuộc
ḍng tộc Lê-vi, lại thu một phần mười chiến
lợi phẩm của ông Áp-ra-ham và chúc lành cho ông là người
đă nhận được lời hứa.7
Điều không ai chối căi được là chỉ
người dưới mới nhận lời chúc lành của
người trên.8 Hơn nữa, một đàng các
tư tế Lê-vi thu một phần mười hoa lợi
là những người phàm phải chết; một đàng
ông Men-ki-xê-đê, người thu một phần mười
chiến lợi phẩm, lại là nhân vật đang sống,
như lời Kinh Thánh chứng nhận.9 Có thể
nói rằng: chính ông Lê-vi, người thu một phần
mười hoa lợi, cũng đă nộp một phần
mười chiến lợi phẩm qua ông Áp-ra-ham,10
v́ ông c̣n ở trong ḷng ông tổ Áp-ra-ham, khi ông Men-ki-xê-đê
ra đón gặp ông này.
11 Chức vụ tư tế Lê-vi là nền
tảng của Lề Luật Thiên Chúa đă ban cho Dân. Vậy giả như người ta
đạt được sự hoàn thiện nhờ chức
vụ tư tế đó rồi, th́ c̣n cần chi phải
đặt lên một tư tế khác theo phẩm trật
Men-ki-xê-đê, thay v́ theo phẩm trật A-ha-ron?12 Quả
thế, một khi chức tư tế thay đổi, th́
nhất thiết phải thay đổi Lề Luật.13
Thật ra những điều nói trên nhắm đến một
người thuộc một chi tộc khác, chi tộc này
chưa hề có ai đă phục vụ bàn thờ.14
Hiển nhiên là Chúa chúng ta đă xuất thân từ chi tộc
Giu-đa, một chi tộc không được ông Mô-sê nói
ǵ đến, khi bàn về các tư tế.
15 Điều ấy lại c̣n hiển
nhiên hơn nữa, khi một vị tư tế khác
tương tự như ông Men-ki-xê-đê xuất hiện;16
vị này đă trở nên tư tế không phải do Lề
Luật quy định việc cha truyền con nối,
nhưng do sức mạnh của một đời sống
bất diệt.17 Quả thật, có lời chứng
nhận rằng: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo
phẩm trật Men-ki-xê-đê.18 Như vậy, một
đàng, quy luật cũ đă bị băi bỏ, v́ có nhược
điểm và vô ích,19 -thật thế, Lề Luật
đă chẳng làm cho cái ǵ nên hoàn hảo-; đàng khác, một
niềm hy vọng tốt đẹp hơn đă được
đưa vào thay thế, nhờ đó chúng ta đến gần
Thiên Chúa.
20 Hơn nữa, điều ấy
đă xảy ra không phải là không có lời thề. Một đàng, các tư tế Lê-vi
đă trở nên tư tế mà không có lời thề;21
c̣n Đức Giê-su khi trở nên tư tế, th́ lại có
lời thề của Đấng nói với Người:
Đức Chúa đă thề ước, Người sẽ
chẳng rút lời, rằng: Muôn thuở, Con là Thượng
Tế.22 Do đó, Đức Giê-su đă trở nên
Đấng bảo đảm cho một giao ước tốt
đẹp hơn.23 Lại nữa, trong ḍng tộc
Lê-vi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế,
bởi v́ họ phải chết, không thể giữ măi chức
vụ đó.24 C̣n Đức Giê-su, chính v́ Người
hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế
của Người tồn tại măi măi.25 Do
đó, Người có thể đem ơn cứu độ
vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến
lại gần Thiên Chúa. Thật vậy,
Người hằng sống để chuyển cầu cho
họ.
26 Phải, đó chính là vị Thượng
Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng
Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi
đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng
trời.27 Đức Giê-su không như các vị
thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ
tế hy sinh, trước là để đền tội của
ḿnh, sau là để đền thay cho dân; phần Người,
Người đă dâng chính ḿnh và chỉ dâng một lần
là đủ.28 V́ Luật Mô-sê th́ đặt làm
thượng tế những con người vốn mỏng
gịn yếu đuối, c̣n lời thề có sau Lề Luật,
lại đặt Người Con đă nên thập toàn cho
đến muôn đời.
8. 1
Điểm chủ yếu trong những điều đang
nói ở đây là điểm này: chúng ta có một vị
Thượng Tế cao cả như thế ngự bên hữu
ngai Đấng uy linh ở trên trời.2 Vị
đó lo việc tế tự trong cung thánh, trong lều trại
thật, do Thiên Chúa chứ không phải do người phàm dựng
lên.3 Quả vậy, bất cứ ai được
phong làm thượng tế cũng là để dâng lễ vật
và tế phẩm; v́ thế, vị này cũng cần phải
có cái ǵ để dâng.4 Vậy, giả như Đức
Giê-su ở dưới thế, th́ Người chẳng phải
là tư tế, bởi v́ đă có những người dâng
lễ vật như Luật truyền.5 Những
người này lo việc phụng tự trong một thánh
điện, mà thánh điện này chỉ là h́nh ảnh lu mờ
mô phỏng thánh điện trên trời. Quả vậy, khi
ông Mô-sê sắp dựng lều trại, th́ ông được
Thiên Chúa phán dạy rằng: Hăy nh́n xem và làm tất cả theo mẫu đă chỉ cho ngươi trên
núi.
6 Nhưng hiện nay, Đức Giê-su được
một tác vụ cao trọng hơn, bởi v́ Người
là trung gian của một giao ước tốt đẹp
hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa
tốt đẹp hơn.7 Thật vậy, giả
như giao ước thứ nhất đă hoàn hảo rồi,
th́ chẳng cần phải t́m giao ước thứ hai
để thay thế.8 Quả thật, Thiên Chúa khiển
trách Dân rằng: Đức Chúa phán: Này sắp đến những
ngày Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhà
Ít-ra-en và nhà Giu-đa.9 Giao ước đó sẽ
không như giao ước Ta đă thiết lập với
cha ông của chúng, trong ngày Ta cầm tay dẫn chúng ra khỏi
Ai-cập. Bởi v́ chúng đă không trung thành với giao
ước của Ta, nên Ta cũng đă bỏ mặc chúng,
Đức Chúa phán:10 Đây là giao ước Ta sẽ
lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó, Đức
Chúa phán: Ta sẽ ghi vào ḷng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm
chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của
chúng, c̣n chúng sẽ là Dân của Ta.11 Không ai c̣n phải
dạy đồng bào ḿnh, không ai c̣n phải dạy anh em
ḿnh rằng: “Hăy học cho biết Đức Chúa”, v́ hết
thảy chúng, từ người nhỏ đến người
lớn, sẽ biết Ta.12 Ta sẽ dung thứ những
điều gian ác chúng làm, sẽ không c̣n nhớ đến
lỗi lầm của chúng nữa.
13 Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước
Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất
hoá ra giao ước cũ; và cái ǵ cũ kỹ, lỗi thời,
th́ sắp tan biến đi.
9. 1 Vậy,
giao ước thứ nhất đă có những quy luật
phụng tự và có thánh điện dưới đất.2
Quả thật, một cái lều, cái lều thứ nhất,
đă được dựng lên; lều này được
gọi là Nơi Thánh, có cây đèn bảy ngọn, có bàn và
bánh dâng tiến.3 Đằng sau bức màn thứ
hai, có một cái lều gọi là Nơi Cực Thánh.4
Trong đó, có hương án bằng vàng và Ḥm Bia Giao Ước
hoàn toàn bọc vàng; Ḥm Bia này chứa b́nh vàng đựng
man-na, cây gậy trổ hoa của ông A-ha-ron và các tấm bia
Giao Ước.5 Trên Ḥm Bia, có hai tượng
kê-ru-bim rạng ngời vinh quang Thiên Chúa, dang cánh che phủ
nắp xá tội. Bây giờ không phải là lúc
nói tỉ mỉ về các điều đó.
6 Mọi sự xếp đặt như thế rồi,
các tư tế thường xuyên vào lều thứ nhất
để cử hành việc phụng tự.7 C̣n lều
thứ hai, th́ chỉ một ḿnh vị thượng tế
mới được vào mỗi năm một lần,
đem theo máu để dâng làm của lễ đền tội
cho chính ḿnh và cho dân.8 Như thế, Thánh Thần tỏ
cho biết là lối vào Nơi Cực Thánh chưa được
mở, bao lâu lều thứ nhất vẫn c̣n đó.9
Điều ấy là h́nh ảnh ám chỉ thời hiện tại,
cho thấy những lễ vật và hy lễ dâng tiến
Thiên Chúa không thể làm cho lương tâm người cử
hành việc phụng tự trở nên hoàn thiện.10
Những cái đó chỉ liên quan đến của ăn thức
uống cùng các loại nghi thức tẩy rửa, và là những
quy luật chỉ có hiệu lực bên ngoài, buộc phải
giữ cho đến thời Thiên Chúa chấn chỉnh mọi
sự.
11 Nhưng Đức Ki-tô đă đến
làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới
tương lai. Để
vào cung thánh, Người đă đi qua một cái lều lớn
hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm
nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo
này.12 Người đă vào cung thánh không phải với
máu các con dê, con ḅ, nhưng với chính máu của ḿnh, Người
vào chỉ một lần thôi, và đă lănh được
ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta.13 Vậy
nếu máu các con dê, con ḅ, nếu nước tro của xác
ḅ cái, đem rảy lên ḿnh những kẻ nhiễm uế
c̣n thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ
trở nên trong sạch,14 th́ máu của Đức
Ki-tô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy,
Đức Ki-tô đă tự hiến tế như lễ vật
vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của
Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những
việc đưa tới sự chết, để chúng ta
xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.
15 Bởi vậy, Người là trung
gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết
của ḿnh mà chuộc tội lỗi người ta đă
phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại
cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền
lănh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đă hứa.16
Ở đâu có chúc thư, th́ cần phải chứng minh rằng
người làm chúc thư đă chết.17 Thật
vậy, chúc thư chỉ có giá trị khi người làm
chúc thư đă chết, bởi v́ chúc thư không bao giờ
có hiệu lực bao lâu người làm chúc thư c̣n sống.18
Do đó, nếu không có máu, th́ đă không khai mạc giao
ước thứ nhất.19 Quả thế, sau khi
ông Mô-sê công bố cho toàn dân mọi điều răn
như đă ghi chép trong Sách Luật, th́ ông lấy máu các con
bê, con dê hoà lẫn với nước, rồi dùng len đỏ
thắm và cành hương thảo mà rảy trên chính cuốn
Sách Luật cũng như trên toàn dân và20 nói: Đây
là máu giao ước, Thiên Chúa đă truyền cho anh em tuân giữ.21
Rồi, cũng theo cách thức đó, ông rảy máu vào lều
thánh và mọi đồ phụng tự.22 Chiếu
theo Lề Luật, hầu hết mọi sự đều
được thanh tẩy bằng máu. Không có máu đổ
ra, th́ không có ơn tha thứ.23 Vậy, nếu các
h́nh ảnh mô phỏng những thực tại trên trời
c̣n cần phải được thanh tẩy như thế,
th́ chính những thực tại trên trời đó lại
càng phải được thanh tẩy bằng những hy
lễ cao trọng hơn biết mấy.24 Quả
thế, Đức Ki-tô đă chẳng vào một cung thánh do
tay người phàm làm ra, v́ cung thánh ấy chỉ là h́nh bóng
của cung thánh thật. Nhưng Người đă vào chính
cơi trời, để giờ đây ra đứng trước
mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta.25 Người
vào đó, không phải để dâng chính ḿnh làm của lễ
nhiều lần, như vị thượng tế mỗi
năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh.26
Chẳng vậy, Người đă phải chịu khổ
h́nh nhiều lần, từ khi thế giới được
tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian,
Người đă xuất hiện chỉ một lần,
để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến
tế chính ḿnh.27 Phận con người là phải
chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.28
Cũng vậy, Đức Ki-tô đă tự hiến tế
chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi
muôn người. Người sẽ xuất
hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải
để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu
độ những ai trông đợi Người.
10. 1
Lề Luật chỉ phác hoạ lờ mờ những phúc
lộc của thế giới tương lai, chứ không
phản ánh chính xác những thực tại đó. Cho nên, Lề
Luật không bao giờ có thể làm cho những người
tiến lại gần Thiên Chúa được nên hoàn thiện,
nhờ những ngần ấy thứ hy lễ người
ta cứ dâng măi năm này qua năm khác.2 Chẳng vậy,
người ta đă thôi không c̣n dâng hy lễ, v́ giả
như những kẻ làm việc thờ phượng
đă được thanh tẩy dứt khoát rồi, th́ họ
đâu c̣n ư thức ḿnh có tội nữa?3 Trái lại,
năm này qua năm khác, chính những hy lễ đó nhắc
cho người ta nhớ ḿnh có tội.4 Thật thế,
máu các con ḅ, con dê không thể nào xoá được tội lỗi.5
V́ vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đă
không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đă tạo
cho con một thân thể.6 Chúa cũng chẳng thích
lễ toàn thiêu và lễ xá tội.7 Bấy giờ
con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến
để thực thi ư Ngài, như Sách Thánh đă chép về
con.
8 Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và
hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đă
chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ
của lễ được dâng tiến theo
Lề Luật truyền.9 Rồi Người nói:
Này con đây, con đến để thực thi ư Ngài. Thế là Người băi bỏ các lễ tế
cũ mà thiết lập lễ tế mới.10 Theo
ư đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức
Giê-su Ki-tô đă hiến dâng thân ḿnh làm lễ tế, chỉ
một lần là đủ.
11 Vị tư tế nào cũng phải
đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự
mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ
lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ
xoá bỏ được tội lỗi.12 C̣n Đức
Ki-tô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền
tội cho nhân loại, Người đă lên ngự bên hữu
Thiên Chúa đến muôn đời.13 Và từ khi
đó, Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị
đặt làm bệ dưới chân.14 Quả thật,
Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà
vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đă
thánh hoá được nên hoàn hảo.15 Điều
đó cả Thánh Thần cũng làm chứng cho chúng ta thấy.
Quả thật, sau khi phán:16
Đây là giao ước Ta sẽ lập với chúng sau những
ngày đó, th́ Đức Chúa phán: Ta sẽ ghi vào tâm khảm
chúng, sẽ khắc vào ḷng trí chúng lề luật của Ta.17
Ta sẽ không c̣n nhớ đến lỗi lầm và việc
gian ác của chúng nữa.18 Mà nơi nào đă có
ơn tha tội, th́ đâu cần lễ đền tội
nữa.
19 Vậy, thưa anh em, nhờ máu Đức
Giê-su đă đổ ra, chúng ta được mạnh dạn
bước vào cung thánh.20 Người đă mở
cho chúng ta một con đường mới và sống động
qua bức màn, tức là chính thân xác của Người.21
Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng
đứng đầu nhà Thiên Chúa.22 V́ thế, chúng
ta hăy tiến lại gần Thiên Chúa với một ḷng chân
thành và một đức tin trọn vẹn, v́ trong ḷng th́
đă được tẩy sạch mọi vết nhơ
của lương tâm, c̣n ngoài xác th́ đă được tắm
rửa bằng nước tinh tuyền.23 Chúng ta
hăy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của
chúng ta cách vững vàng, v́ Đấng đă hứa là Đấng
trung tín.24 Chúng ta hăy để ư đến nhau, làm
sao cho người này thúc đẩy người kia sống
yêu thương và làm những việc tốt.25
Chúng ta đừng bỏ các buổi hội họp, như
vài người quen làm; trái lại, phải khuyến khích
nhau, nhất là khi anh em thấy Ngày Chúa đến đă gần.
26 Thật vậy, nếu chúng ta cố
t́nh phạm tội sau khi đă học biết sự thật,
th́ không c̣n hy lễ nào đền tội được nữa,27
mà chỉ c̣n phải sợ hăi đợi chờ cuộc
phán xét và ngọn lửa nóng bừng thiêu huỷ các đối
tượng của Thiên Chúa.28 Ai khinh thường
luật Mô-sê, theo lời chứng của hai hay ba người,
th́ sẽ bị xử tử thẳng tay.29
Phương chi kẻ đă chà đạp Con Thiên Chúa,
đă xúc phạm đến Máu Giao Ước đă thánh hiến
ḿnh và nhục mạ Thần Khí ban ân sủng, th́ anh em thử
nghĩ xem, kẻ ấy đáng chịu h́nh phạt ghê gớm
hơn biết mấy!30 V́ chúng ta biết Đấng
đă nói: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả. Lại
có lời rằng: Chúa sẽ xét xử Dân Người.31
Thật là khủng khiếp, khi phải rơi vào tay Thiên Chúa hằng sống!
32 Xin anh em nhớ lại những ngày
đầu: lúc vừa được ơn chiếu sáng,
anh em đă phải đối phó với bao nỗi đau
khổ dồn dập.33 Khi th́ anh em bị sỉ nhục
và hành hạ trước mặt mọi người, khi th́
phải liên đới với những người cùng cảnh
ngộ.34 Quả thật, anh em đă thông phần
đau khổ với những người bị tù tội,
và đă vui mừng để cho người ta tước
đoạt của cải, bởi biết rằng ḿnh có những
của vừa quư giá hơn lại vừa bền vững.35
Vậy, anh em đừng đánh mất ḷng tin tưởng
mạnh dạn của anh em; ḷng tin tưởng đó sẽ
mang lại một phần thưởng lớn lao.36
Anh em cần phải kiên nhẫn, để sau khi thi hành ư
Thiên Chúa, anh em được hưởng điều
Người đă hứa.37 V́ chỉ c̣n ít lâu nữa,
một ít thôi, Đấng phải đến sẽ đến,
Người sẽ không tŕ hoăn.38 Người công
chính của Ta nhờ ḷng tin sẽ được sống;
nhưng nếu người ấy bỏ cuộc, th́ Ta
không hài ḷng về người ấy.
39 Phần chúng ta, chúng ta không phải là
những người bỏ cuộc để phải
hư vong, nhưng là những người có ḷng tin để
bảo toàn sự sống.
11. 1
Đức tin là bảo đảm cho những điều
ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta
không thấy.2 Nhờ đức tin ấy, các tiền
nhân đă được Thiên Chúa chứng giám.
3 Nhờ đức tin, chúng ta hiểu rằng vũ
trụ đă được h́nh thành bởi lời của
Thiên Chúa; v́ thế, những cái hữu h́nh là do những cái
vô h́nh mà có.4 Nhờ đức tin, ông A-ben đă dâng
lên Thiên Chúa một hy lễ cao quư hơn hy lễ của ông
Ca-in: nhờ tin như vậy, ông A-ben đă được
chứng nhận là người công chính, bởi v́ Thiên Chúa
đă chấp nhận những lễ phẩm ông dâng. Và cũng nhờ tin như thế, mà tuy đă chết
rồi, ông vẫn c̣n lên tiếng.
5 Nhờ đức tin, ông Kha-nốc
được đem đi nơi khác để khỏi chết,
và người ta không t́m thấy ông nữa, bởi v́ Thiên
Chúa đă đem ông đi.
Quả thật, Kinh Thánh chứng nhận rằng: trước
khi được đem đi, ông đă làm đẹp ḷng
Thiên Chúa.6 Mà không có đức tin, th́ không thể làm
đẹp ḷng Thiên Chúa, v́ ai đến gần Thiên Chúa, th́
phải tin là có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban
phần thưởng cho những ai t́m kiếm Người.
7 Nhờ đức tin, ông Nô-ê
được Thiên Chúa báo cho biết những ǵ người
ta chưa thấy; v́ có ḷng kính sợ Thiên Chúa, ông đă
đóng một chiếc tàu để cứu gia đ́nh ông. Tin như thế là ông đă lên án thế gian, và được phần gia
nghiệp là sự công chính nhờ đức tin.
8 Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đă vâng nghe tiếng
Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ
được lănh nhận làm gia nghiệp, và ông đă ra
đi mà không biết ḿnh đi đâu.9 Nhờ đức
tin, ông đă tới cư ngụ tại Đất Hứa
như tại một nơi đất khách, ông sống
trong lều cũng như ông I-xa-ác và ông Gia-cóp là những
người đồng thừa kế cũng một lời
hứa,10 v́ ông trông đợi một thành có nền
móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng.11 Nhờ
đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn,
cũng đă có thể thụ thai và sinh con nối ḍng vào
lúc tuổi đă cao, v́ bà tin rằng Đấng đă hứa
là Đấng trung tín.12 V́ thế, do một người
duy nhất, một người kể như chết rồi
mà đă sinh ra một ḍng dơi nhiều như sao trời cát
biển, không tài nào đếm được.13 Tất
cả các ngài đă chết, lúc vẫn c̣n tin như vậy,
mặc dù chưa được hưởng các điều
Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đă thấy và
đón chào các điều ấy, cùng xưng ḿnh là ngoại
kiều, là lữ khách trên mặt đất.14 Những
người nói như vậy cho thấy là họ đang
đi t́m một quê hương.15 Và nếu quả
thật họ c̣n nhớ tới quê hương ḿnh đă bỏ
ra đi, th́ họ vẫn có cơ hội trở về.16
Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê
hương tốt đẹp hơn, đó là quê
hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đă không
hổ thẹn để cho các ngài gọi ḿnh là Thiên Chúa của
các ngài, v́ Người đă chuẩn bị một thành cho
các ngài.
17 Nhờ đức tin, khi bị thử
thách, ông Áp-ra-ham đă hiến tế I-xa-ác; dù đă nhận
được lời hứa, ông vẫn hiến tế
người con một.18 Về người con này,
Thiên Chúa đă phán bảo: Chính do I-xa-ác mà sẽ có một
ḍng dơi mang tên ngươi.19 Quả thật, ông
Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người
chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông
đă nhận lại người con ấy như là một
biểu tượng.
20 Nhờ đức tin, khi nh́n về
tương lai, ông I-xa-ác đă chúc phúc cho Gia-cóp và Ê-xau.21
Nhờ đức tin, ông Gia-cóp, khi sắp chết, đă
chúc phúc cho mỗi người con ông Giu-se; ông dựa vào
đầu gậy, cúi ḿnh xuống sụp lạy.22
Nhờ đức tin, ông Giu-se, khi sắp ĺa đời,
đă nhắc lại cuộc xuất hành của con cái
Ít-ra-en và ra chỉ thị liên quan đến hài cốt của
ông.
23 Nhờ đức tin, lúc chào đời,
ông Mô-sê đă được cha mẹ giấu đi ba
tháng, bởi v́ ông bà thấy đứa trẻ khôi ngô, và
không sợ sắc chỉ nhà vua.24 Nhờ đức
tin, ông Mô-sê, khi lớn lên đă từ chối không chịu
cho người ta gọi là con của công chúa Pha-ra-ô;25
ông thà cùng chịu ngược đăi với Dân Thiên Chúa c̣n
hơn là được hưởng cái sung sướng
chóng qua do tội lỗi mang lại;26 ông coi sự
ô nhục của người được xức dầu
là của cải quư báu hơn các kho tàng của người
Ai-cập, v́ mắt ông vẫn đăm đăm nh́n phần
thưởng mai sau.27 Nhờ đức tin, ông bỏ
Ai-cập mà không sợ cơn thịnh nộ của nhà vua;
ông vững vàng không nao núng, như thể xem thấy Đấng
vô h́nh.28 Nhờ đức tin, ông đă cử hành lễ
Vượt Qua và rảy máu để Thần tiêu diệt
khỏi đụng đến các con đầu ḷng.29
Nhờ đức tin, người Do-thái đă băng qua Biển
Đỏ như đi trên đất khô, c̣n người
Ai-cập lại bị chết ch́m trong khi t́m cách rượt
theo.
30 Nhờ đức tin, tường
thành Giê-ri-khô đă sụp đổ, sau khi dân Ít-ra-en đi
ṿng quanh trong bảy ngày.31 Nhờ đức tin, cô
kỹ nữ Ra-kháp đă không phải chết cùng với
quân phản nghịch, v́ cô đă hoà nhă tiếp đón những
người do thám.
32 Tôi c̣n phải nói ǵ nữa đây? Tôi sợ không có đủ thời giờ
để kể truyện các ông Ghít-ôn, Ba-rắc, Sam-sôn,
Gíp-tác, Đa-vít, Sa-mu-en và các ngôn sứ.33 Nhờ
đức tin, các vị này đă chinh phục các nước,
thực hành công lư, đạt được những ǵ
Thiên Chúa đă hứa; các ngài đă khoá miệng sư tử,34 dập tắt lửa hồng mănh
liệt, thoát khỏi lưỡi gươm. Các
ngài đă lướt thắng bệnh tật mà trở nên
mạnh mẽ, đă tỏ ra dũng cảm tại chiến
trường, và đẩy lui được quân ngoại
xâm.35 Có những phụ nữ đă thấy thân phận
ḿnh chết nay sống lại. Có những người
bị tra tấn mà không muốn được giải
thoát, để được hưởng một sự sống
lại tốt đẹp hơn.36 Có những
người phải chịu nhạo cười và roi vọt,
hơn nữa c̣n bị xiềng xích và bỏ tù;37 họ bị ném đá, bị
cưa đôi, bị chết v́ gươm; họ phải
lưu lạc, mặc áo da cừu da dê, chịu thiếu thốn,
bị áp bức và hành hạ.38 Thế gian chẳng
xứng với họ! Họ đi lang thang trong hoang địa,
trên núi đồi, trong hang hốc và hầm hố.39
Nhờ đức tin, tất cả các nhân vật đó
đă được chứng giám, thế mà họ không
đạt được những điều Thiên Chúa
đă hứa.40 Quả thật, Thiên Chúa đă trù liệu
cho chúng ta một phần phúc tốt hơn, nên không muốn
cho họ đạt tới hạnh phúc trọn vẹn mà
không có chúng ta.
12. 1
Như thế, phần chúng ta, được ngần ấy
nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta
hăy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi
đang trói buộc ḿnh, và hăy kiên tŕ chạy trong cuộc
đua dành cho ta,2 mắt hướng
về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện
toàn ḷng tin. Chính Người đă khước từ niềm
vui dành cho ḿnh, mà cam chịu khổ h́nh thập giá, chẳng
nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên
Chúa.3 Anh em hăy tưởng nhớ Đấng đă
cam chịu để cho những người tội lỗi
chống đối ḿnh như thế, để anh em khỏi
sờn ḷng nản chí.4 Quả thật, trong cuộc
chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống
trả đến mức đổ máu đâu.
Thiên Chúa lấy t́nh cha mà
giáo dục
5 Anh em đă quên lời khuyên nhủ được
nói với anh em như với những người con: Con
ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ
nản ḷng khi Người khiển trách.6 V́ Chúa
thương ai th́ mới sửa dạy kẻ ấy, và có
nhận ai làm con th́ Người mới cho roi cho vọt.7
Anh em hăy kiên tŕ để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như
với những người con. Thật vậy, có
đứa con nào mà người cha không sửa dạy?8
Nếu anh em không được sửa dạy như tất
cả mọi người, th́ khi đó anh em là con ngoại
hôn, chứ không phải là con chính thức.9 Vả lại,
chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn
tôn kính, th́ chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời
để được sống.10 Cha trần thế
sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và
theo sở thích của ḿnh; c̣n Thiên Chúa sửa dạy là v́ lợi
ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần
vào sự thánh thiện của Người.11 Ngay
lúc bị sửa dạy, th́ chẳng ai lấy làm vui thú mà
chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những
người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt
được hoa trái là b́nh an và công chính.12 Bởi
vậy, hăy làm cho những bàn tay bủn rủn, những
đầu gối ră rời, nên mạnh mẽ.13
Hăy sửa đường cho thẳng mà đi, để
người què khỏi trật bước và hơn nữa,
c̣n được chữa lành.
14 Anh em phải cố ăn ở hoà thuận
với mọi người, phải gắng trở nên thánh
thiện; v́ không có sự thánh thiện, th́ không ai sẽ
được thấy Chúa.15 Anh em phải coi chừng,
kẻo có ai lừng khừng mà mất ân sủng của
Thiên Chúa, kẻo có ai trở nên rễ đắng nảy mầm,
gây xáo trộn và do đó làm hư hỏng nhiều người.16
Đừng có ai gian dâm hoặc phàm tục như Ê-xau, kẻ
đă v́ một món ăn mà bán quyền trưởng nam.17
Anh em quá biết: sau này, cho dù muốn được thừa
hưởng lời chúc phúc, anh ta cũng không thể làm thay
đổi t́nh thế, mặc dù đă khóc lóc van xin.
18 Anh em đă chẳng tới một quả
núi sờ thấy được, có lửa đang cháy, mây
mù, bóng tối và giông tố,19 có tiếng kèn vang dậy,
và tiếng nói thét gầm, khiến những kẻ nghe phải
van xin đừng để lời ấy thốt ra với
họ nữa,20 v́ họ không chịu nổi mệnh
lệnh sau đây: Ngay cả thú vật đụng đến
núi, cũng phải bị ném đá.21 Cảnh tượng
hăi hùng đến mức ông Mô-sê phải nói: Tôi kinh hoàng và
run rẩy!22 Nhưng anh em đă tới núi Xi-on, tới
thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời,
với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đă tới dự
hội vui,23 dự đại hội
giữa các con đầu ḷng của Thiên Chúa, là những kẻ
đă được ghi tên trên trời. Anh em đă tới
cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người,
đến với linh hồn những người công chính
đă được nên hoàn thiện.24 Anh em đă
tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức
Giê-su và được máu của Người rảy xuống,
máu đó kêu thấu trời c̣n mạnh thế hơn cả
máu A-ben.25 Anh em phải coi chừng, chớ từ
chối không nghe Đấng phán dạy. Quả thật, những
ai từ chối không nghe Đấng tuyên sấm ở
dưới đất đă không thoát khỏi h́nh phạt;
huống hồ là chúng ta, làm sao chúng ta thoát được,
nếu chúng ta quay lưng lại không chịu nghe Đấng
tuyên sấm từ trời!26 Xưa tiếng Người
phán đă làm cho đất rung chuyển, th́ nay Người
lại đưa ra lời hứa sau đây: Một lần
nữa, Ta sẽ lay chuyển không những trái đất,
mà cả các tầng trời!27 Những tiếng một
lần nữa cho thấy rằng những sự vật bị
rung chuyển sẽ phải thay đổi, bởi v́ đă
được làm ra, để những ǵ không bị rung
chuyển được tồn tại.28 Cho nên, bởi
v́ chúng ta được lănh nhận một vương quốc
vững bền không lay chuyển, chúng ta phải biết
ơn Thiên Chúa. Với ḷng biết ơn
đó, chúng ta hăy kính sợ mà phụng thờ Thiên Chúa cho
đẹp ḷng Người.29 Quả thật, Thiên
Chúa chúng ta là một ngọn lửa thiêu.
13. 1
Anh em hăy giữ măi t́nh huynh đệ.2 Anh em đừng
quên tỏ ḷng hiếu khách, v́ nhờ vậy, có những
người đă được tiếp đón các thiên thần
mà không biết.3 Anh em hăy nhớ đến các
người bị xiềng xích, chẳng khác ǵ anh em
cũng bị xiềng xích với họ; anh em hăy nhớ
đến những người bị hành hạ, chẳng
khác ǵ ḿnh với họ chỉ là một thân thể.4
Ai nấy phải tôn trọng hôn nhân, chớ làm cho loan pḥng
ra ô uế, v́ Thiên Chúa sẽ xét xử các kẻ gian dâm và ngoại
t́nh.5 Trong cách ăn nết ở, anh em đừng
có ham tiền, hăy coi những ǵ ḿnh đang có là đủ,
v́ Thiên Chúa đă phán: Ta sẽ không bỏ rơi
ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi! ,6 đến nỗi chúng ta có thể
tin tưởng mà nói: Có Chúa ở cùng tôi mà bênh đỡ,
tôi chẳng sợ ǵ. Hỏi người
đời làm chi tôi được?
7 Anh em hăy nhớ đến những
người lănh đạo đă giảng lời Chúa cho anh
em. Hăy nh́n xem cuộc
đời họ kết thúc thế nào mà noi theo
ḷng tin của họ.8 Đức Giê-su Ki-tô vẫn
là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy măi
đến muôn đời.9 Đừng để
cho đủ thứ học thuyết xa lạ mê hoặc
anh em. Điều tốt là củng cố tâm hồn bằng
ân sủng, chứ không phải bằng đồ ăn thức
uống, là những thứ chẳng sinh ích ǵ cho những
người giữ luật Mô-sê về chuyện ăn uống.10
Chúng ta có một bàn thờ; những ǵ dâng trên đó, các
người lo việc phụng tự trong Lều không có
quyền ăn.11 Vị thượng tế mang máu
thú vật vào cung thánh để dâng làm của lễ đền
tội; nhưng thây các thú vật đó đều bị
thiêu ở ngoài trại.12 V́ thế, Đức
Giê-su đă chịu khổ h́nh ngoài cửa thành, lấy máu
ḿnh mà thánh hoá toàn dân.13 Vậy ta hăy ra khỏi trại
mà đến với Người, cam ḷng gánh vác nỗi khổ
nhục Người đă chịu.14 V́ trên đời
này, chúng ta không có thành tŕ bền vững, nhưng đang t́m
kiếm thành tŕ tương lai.15 Vậy nhờ
Người, chúng ta hăy luôn luôn dùng lời ngợi khen làm lễ
tế dâng lên Thiên Chúa, tức là dùng miệng lưỡi mà
ca tụng Danh Thánh.16 Anh em chớ quên làm việc từ
thiện, giúp đỡ lẫn nhau, v́ Thiên Chúa ưa thích những
hy lễ như thế.
17 Anh em hăy vâng lời những người
lănh đạo anh em và hăy phục tùng họ, v́ họ
chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ
phải trả lẽ với Thiên Chúa. Như thế, họ sẽ
vui vẻ thi hành phận sự của ḿnh mà không than thở,
bởi v́ điều đó chẳng ích ǵ cho anh em.18
Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi tin rằng
chúng tôi có lương tâm ngay lành, muốn ăn ở tốt
trong mọi hoàn cảnh.19 Tôi tha thiết khuyên anh em
làm như thế, để tôi được sớm trở
về với anh em.
20 Thiên Chúa là nguồn mạch b́nh an đă đưa Đức Giê-su, Chúa chúng
ta ra khỏi cái chết. Đức Giê-su là vị Mục Tử
cao cả của đoàn chiên, là Đấng đă đổ
máu ḿnh ra để thiết lập giao ước vĩnh cửu.21
Xin Thiên Chúa ban cho anh em mọi ơn lành để có sức
thi hành thánh ư Người. Xin Người thực
hiện nơi anh em điều đẹp ḷng Người,
nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Kính dâng
Đức Ki-tô vinh quang đến muôn thuở muôn đời.
A-men.
22 Thưa anh em, tôi xin anh em chịu khó
nghe lời khuyên này. Vả
lại, tôi chỉ viết cho anh em vắn tắt thôi.23
Xin báo cho anh em biết: Ti-mô-thê, người anh em của
chúng ta, đă được thả rồi. Nếu
anh ấy đến đây sớm, th́ tôi sẽ cùng với
anh đến gặp anh em.24 Xin gửi lời chào
các vị lănh đạo anh em và mọi người trong dân
thánh. Những người từ I-ta-li-a gửi lời
chào anh em.25 Chúc tất cả anh em được
đầy tràn ân sủng của Thiên
Chúa!